WB: Đầu tư ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam phải "mang tính khu vực chứ không phải cấp tỉnh"
Trình bày tham luận tại Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam (Vietnam Connect Forum) năm 2023 ngày 17/3, bà Stefanie Stallmeister - Giám đốc Danh mục dự án của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã nêu rõ 2 thách thức hàng đầu trong tăng trưởng xanh và kỹ thuật số ở khu vực miền Trung, Việt Nam...
Về tăng trưởng xanh, bà Stefanie Stallmeister cho rằng khu vực miền Trung đối mặt cả những thách thức ở khía cạnh thích ứng và khía cạnh khử carbon.
Ở khía cạnh thích ứng, miền Trung đang đối mặt với mực nước biển đang dâng cao, những cơn bão mạnh hơn, lượng mưa thất thường hơn. Các thành phố trong khu vực hứng chịu nhiều trận lũ, hạn hán, trong khi người dân sống dọc theo bờ biển phải đối mặt với sự xói mòn và nhiễm mặn. Đại diện WB nhấn mạnh rủi ro tự nhiên đối với các cộng đồng ven biển miền Trung hiện tương đối lớn và ngày càng gia tăng.
Trên toàn Việt Nam, thiên tai gây thiệt hại về phúc lợi lên tới 11 tỷ USD mỗi năm, với 60% trong số này xảy ra ở các vùng ven biển và biến đổi khí hậu trong tương lai được dự báo sẽ làm tăng những tổn thất này hơn nữa.
"Do đó, rõ ràng đầu tư vào thích ứng là hoàn toàn cần thiết để đối phó với những thách thức trước mắt và ngày càng tồi tệ hơn. Chỉ riêng đối với các khu vực ven biển, việc trì hoãn hành động trong 10 năm có thể làm mất đi 4,3 tỷ USD tăng trưởng kinh tế trước các cú sốc tự nhiên. Một kế hoạch hành động và chương trình đầu tư quốc gia là cần thiết để giải quyết các rủi ro và cơ hội phát triển vùng ven biển", Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam phân tích.
Tuy nhiên, bà Stallmeister cũng nhấn mạnh rằng việc đầu tư này phải "mang tính khu vực chứ không phải cấp tỉnh", bởi rất khó để đầu tư vào các biện pháp bảo vệ bờ biển theo từng tỉnh hay đầu tư quản lý đường sông theo tỉnh. Bà lấy ví dụ, thành phố Đà Nẵng không thể quản lý lũ theo mùa mà không phối hợp với các tỉnh xung quanh trong quản lý lưu vực giàu rừng.
Bên cạnh đó, các khoản đầu tư này "phải có khả năng phục hồi khí hậu", đại diện WB nhấn mạnh thêm.
"Hiện tại, định mức chi phí mà Bộ Xây dựng đưa ra cho đầu tư cơ sở hạ tầng không phù hợp với chi phí liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng không bị cuốn trôi hoặc không bị sạt lở. Việc này tốn kém hơn thế, nhưng về lâu dài sẽ tốn kém hơn khi xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng chống chịu với khí hậu vì các định mức chi phí đang cản trở hoạt động đầu tư có khả năng chống chịu tốt hơn", đại diện WB nói.
Bên cạnh đó, việc đưa ra các giải pháp thích ứng với biển đổi khí hậu phải dựa trên thiên nhiên để mang lại lợi ích kép trong quản lý các tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời giảm lượng khí thải và làm cho các thành phố, bờ biển và rừng trở nên hấp dẫn hơn.
Theo bà Stallmeister, các hệ thống dựa vào thiên nhiên thường không được đánh giá đúng vai trò trong việc thúc đẩy khả năng phục hồi của vùng ven biển và đang chịu áp lực ngày càng tăng từ sự phát triển và khai thác quá mức. Trong 30 năm qua, Việt Nam đã mất một nửa diện tích rừng ngập mặn, chủ yếu là do phá rừng và lấy đất làm ao nuôi tôm.
Ở khía cạnh khử carbon, đại diện WB cho rằng dù Việt Nam là quốc gia phát thải khí nhà kính thấp theo tiêu chuẩn toàn cầu, cường độ tăng trưởng carbon đang tăng lên và đây là một vấn đề đối với nền kinh tế toàn cầu hóa.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm lượng khí thải carbon trong hàng xuất khẩu của Việt Nam để đảm bảo hàng xuất khẩu của Việt Nam duy trì tính cạnh tranh, bà Stallmeister cho rằng người tiêu dùng, nhà nhập khẩu và nhà đầu tư ngày càng chú ý đến các nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu và có thể bắt đầu bỏ rơi các quốc gia và ngành công nghiệp gây ô nhiễm cao trong tương lai. Mô hình phát triển sử dụng nhiều tài nguyên giúp Việt Nam đạt được mức thu nhập hiện tại không thể duy trì trong một thế giới biến đổi khí hậu.
"Vì vậy, đã đến lúc khu vực miền Trung phải xem xét nền nông nghiệp phát thải thấp trông như thế nào để xuất khẩu nông sản của bạn duy trì tính cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Đã đến lúc ngành du lịch sôi động của bạn được tiếp cận với năng lượng tái tạo và quản lý chất thải rắn bền vững để bạn có thể tiếp tục thu hút khách du lịch có ý thức bảo vệ môi trường. Đã đến lúc phải đảm bảo rằng các ngành sản xuất ở Thanh Hóa , Nghệ An và Hà Tĩnh có thể tiếp cận các nguồn năng lượng tái tạo, không xả thải và sản phẩm có thể được xuất khẩu thông qua chuỗi hậu cần các-bon thấp", đại diện WB phát biểu.
Theo bà, việc mở rộng năng lượng tái tạo sẽ mang lại cơ hội cho khu vực. Các phần của khu vực có lợi thế so sánh mạnh mẽ về năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời và gió. Thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực này có thể tạo ra một cú hích kinh tế quan trọng và tạo việc làm.
Trên cơ sở những phân tích trên, đại diện WB đưa ra một số khuyến nghị cho khu vực miền Trung Việt Nam để tăng trưởng xanh bền vững.
Thứ nhất là phải có Quy hoạch Phát triển Điện lực (PDP) 8 được phê duyệt để thiết lập lộ trình cho quá trình chuyển đổi xanh và xác định các khoản đầu tư có thể thúc đẩy quá trình chuyển đổi này.
"Không có điều này, rất khó để hiểu quy mô đầu tư hoặc huy động các nguồn lực", bà Stallmeister nói.
Thứ hai, phải đẩy nhanh các thỏa thuận mua sắm để EVN có thể mua năng lượng tái tạo theo cách có thể dự đoán được cho các nhà đầu tư tư nhân và đảm bảo tính bền vững tài chính của EVN.
"Khi các bạn giảm lượng khí thải, bạn có thể bán những khoản tiết kiệm carbon này vào thị trường carbon", bà Stallmeister nói thêm
Trong bài tham luận, đại diện WB cũng nêu lên những thách thức về tăng trưởng nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam. Đây là trọng tâm của nhu cầu tăng cường tăng trưởng năng suất trong nền kinh tế Việt Nam và áp dụng rộng rãi hơn cho cách tiếp cận của Việt Nam đối với việc áp dụng công nghệ.
Nhận định không nhiều quốc gia trong khu vực đạt được mức thu nhập cao mà không phát triển và áp dụng công nghệ, bà Stallmeister đánh giá các chương trình hỗ trợ nâng cấp công nghệ của chính phủ Việt Nam, so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Malaysia và Thái Lan, khá hạn chế cả về số lượng chương trình và khối lượng.
"Các chương trình này có xu hướng rời rạc và thiếu sự phối hợp giữa các bộ ngành và giữa cấp quốc gia và cấp địa phương. Có thể hữu ích nếu xem xét kinh nghiệm của một số nước láng giềng của các bạn. Chúng ta có thể nhìn vào Hàn Quốc và cách họ có thể leo lên bậc thang công nghệ theo cách thúc đẩy năng suất và tăng trưởng nhanh chóng", bà phân tích.
Đánh giá cao sự đa dạng hóa đáng kể trong sản xuất, không giống như Hàn Quốc nhờ phụ thuộc nhiều vào FDI, nhưng đại diện WB cho rằng Việt Nam đang đầu tư chưa đầy đủ vào các năng lực trong tương lai để đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ đòi hỏi các nguồn lực dựa trên tri thức và phức tạp hơn.
Ví dụ, cường độ R&D của Việt Nam ở mức 0,4% vào năm 2021, so với mức 1,5% của Hàn Quốc vào năm 1987 khi quốc gia này có GDP bình quân đầu người tương tự. Số đơn xin cấp bằng sáng chế đã tăng lên kể từ giữa những năm 1990, nhưng số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế ở Việt Nam vào năm 2021 so với Hàn Quốc những năm 1980. Thiếu nguồn lực hạn chế sự mở rộng của nhiều trường đại học khoa học và kỹ thuật hàng đầu của Việt Nam, hạn chế sự phát triển của lực lượng lao động STEM có tay nghề cao. Và gần 80% các công ty sản xuất đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công nhân lành nghề.
Trên cơ sở những phân tích trên, bà Stallmeister khẳng định WB mong muốn hỗ trợ khu vực miền Trung Việt Nam trên con đường phát triển của mình.
Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam (Vietnam Connect Forum) năm 2023 là sự kiện thường niên lần thứ ba, với chủ đề "Đột phá mới cho miền Trung – Tây Nguyên: chuyển đổi kép xanh và công nghệ số trong chiến lược tăng trưởng kinh tế bền vững". Diễn đàn và Lễ trao giải thưởng Rồng Vàng lần thứ 22 tiếp nối sau đó do Bộ Ngoại giao, Tạp chí Kinh tế Việt Nam và Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức vào ngày 17/3 tại TP. Đà Nẵng.
Sự kiện có sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Ngoại giao, Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng cùng đại diện các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài Nguyên và Môi trường và các đồng chí chủ tịch, phó chủ tịch 19 tỉnh/thành phố khu vực Bắc Trung bộ, duyên hải Trung bộ và Tây Nguyên. Diễn đàn cũng có sự tham dự và đóng góp ý kiến của Ngân hàng thế giới cùng đại diện hơn 20 đại sứ quán, lãnh sự quán, gần 20 đại diện lãnh đạo các Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam và hơn 300 đại diện doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam.