10:51 20/04/2023

Lãi suất liên ngân hàng giảm, Ngân hàng Nhà nước hút ròng hơn 3.133 tỷ đồng

Hoàng Lan

Ngày 19/4, lãi suất chào bình quân liên ngân hàng VND giảm mạnh 0,32 – 0,7 % ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống so với phiên trước đó.Trong khi đó, trên thị trường ngoại tệ tỷ giá VND/USD tăng 11 đồng...

Lãi suất liên ngân hàng đảo chiều.
Lãi suất liên ngân hàng đảo chiều.

Cụ thể, lãi suất qua đêm 4,43%; 1 tuần 4,65%; 2 tuần 4,9% và 1 tháng 5,2%. Lãi suất chào bình quân liên ngân hàng USD giảm 0,01 % ở các kỳ hạn ngắn trong khi đi ngang ở các kỳ hạn 2 tuần và 1 tháng. Lãi suất liên ngân hàng USD qua đêm 4,61%; 1 tuần 4,71%; 2 tuần 4,87%, 1 tháng 5 %. Lợi suất trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp giảm ở tất cả các kỳ hạn, cụ thể: 3 năm 2,75%; 5 năm 2,72%; 7 năm 2,93%; 10 năm 3,29%; 15 năm 3,42%. 

Lãi suất liên ngân hàng ngày 19/4.
Lãi suất liên ngân hàng ngày 19/4.

Theo thống kê của MSB, trên kênh cầm cố, Ngân hàng Nhà nước chào thầu 10.000 tỷ đồng kỳ hạn 7 ngày và 10.000 tỷ đồng kỳ hạn 28 ngày, đều với lãi suất 5%. Không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn; có 3.133,22 tỷ đồng đáo hạn.

Ngân hàng Nhà nước không chào thầu tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, không có khối lượng đáo hạn. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước hút ròng 3.133,22 tỷ đồng từ thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở; khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố giảm xuống mức 64.074,04 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành giữ ở mức 110.699,8 tỷ đồng. 

Ngày 19/4, Kho bạc Nhà nước huy động 10.250 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, khối lượng trúng thầu là 9.874 tỷ đồng (đạt 96%). Trong đó, kỳ hạn 5 năm, 10 năm và 15 năm huy động được toàn bộ khối lượng gọi thầu, lần lượt là 3.000 tỷ, 2.250 tỷ và 4.500 tỷ. Riêng kỳ hạn 30 năm chỉ huy động được 124 tỷ/500 tỷ. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn trên lần lượt tại 5 năm 2,78% (-0,2 % so với lần trúng thầu trước); 10 năm 3,28% (không thay đổi), 15 năm 3,4% (không thay đổi) và 30 năm 3,66% (không thay đổi).

Trên thị trường ngoại tệ phiên 19/4, Ngân hàng Nhà nước niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.626 VND/USD, tăng tiếp 11 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá bán giao ngay được niêm yết ở mức 24.757 VND/USD; thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.

Tỷ giá mua giao ngay được giữ nguyên niêm yết ở mức 23.450 VND/USD. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá chốt phiên với mức 23.500 VND/USD, tiếp tục tăng 10 đồng so với phiên 18/4. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 30 đồng ở chiều mua vào trong khi giữ nguyên ở chiều bán ra, giao dịch tại 23.440 VND/USD và 23.520 VND/USD.

Tỷ giá VND/USD ngày 19/4.
Tỷ giá VND/USD ngày 19/4.

Theo Tổng cục Hải quan, kỳ 1 tháng 4/2023, cán cân thương mại hàng hóa cả nước thặng dư 0,4 tỷ USD, lũy kế từ đầu năm đến hết 15/4 thặng dư 5,26 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 13,24 tỷ USD trong nửa đầu tháng 4, kim ngạch nhập khẩu đạt 12,84 tỷ. Lũy kế từ 1/1 đến 15/4, kim ngạch xuất khẩu đạt 92,5 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 87,24 tỷ.

Trên thế giới, Chủ tịch Fed chi nhánh New York – ông John Williams nhận định lạm phát tại Mỹ vẫn đang là một vấn đề, Fed sẽ sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để phục hồi sự ổn định giá cả. Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng các áp lực từ lĩnh vực ngân hàng có thể ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế, song vẫn còn quá sớm để có thể đánh giá mức độ tác động. Ông Williams kỳ vọng chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE sẽ giảm xuống 3,25% trong năm nay và đạt mục tiêu 2% trong vòng hai năm tới.

Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh ONS công bố CPI toàn phần tháng 3 của nước này tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn một chút so với mức 10,4% của tháng trước đó nhưng vẫn cao hơn mức 9,8% theo dự báo. Bên cạnh đó, CPI lõi tháng 3 tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước (y/y) không thay đổi so với tháng 2 và trái với kỳ vọng hạ nhiệt xuống 6%.

Chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi khu vực Eurozone chính thức tăng 6,9% và 5,7% y/y trong tháng 3, không thay đổi so với dữ liệu thống kê sơ bộ. Đây là mức tăng CPI toàn phần thấp nhất kể từ tháng 3/2022, tuy nhiên lại cho thấy mức tăng CPI lõi lớn nhất trong nhiều thập kỷ.