13:58 05/08/2025

Nhiều điểm lưu ý khi thu giữ tài sản bảo đảm

Đỗ Mến

Luật sư Nguyễn Huy Hoàng cho rằng việc luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm chỉ là bước khởi đầu. Quan trọng hơn là cần xây dựng văn hóa, “thói quen” tuân thủ quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm một cách văn minh, bình đẳng, tôn trọng quyền cơ bản của con người không chỉ ở các bên liên quan mà còn chính các tổ chức tín dụng và cơ quan nhà nước…

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Ngày 27/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các Tổ chức tín dụng 2024 (Luật số 96/2025/QH15), trong đó có một trong những quy định rất quan trọng là quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng.

Luật số 96/2025/QH15 đã luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm đã được quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội ngày 21/06/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng vốn từng gây nhiều tranh luận do lo ngại bị lạm dụng.

Theo luật sư Nguyễn Huy Hoàng, Công ty Luật Bross and Partners, quy định trên cho phép các tổ chức tín dụng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 2, Điều 1, Luật số 96/2025/QH15 và hướng dẫn của Chính phủ và phải đảm bảo nguyên tắc về sự cân bằng giữa lợi ích các bên, đồng thời không được vi phạm điều cấm của của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Điều đó có nghĩa việc thu giữ tài sản bảo đảm bảo đảm phải “chính danh - hợp pháp - có điều kiện”. Tuy nhiên, “chính danh - hợp pháp - có điều kiện” như thế nào cần phải chờ hướng dẫn của Chính phủ.

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 1, Luật số 96/2025/QH15, việc thu giữ tài sản bảo đảm có một số điểm cần lưu ý sau:

Thứ nhất, hợp đồng bảo đảm phải có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Theo luật sư, với quy định này, các khoản nợ xấu mặc dù được thí điểm xử lý theo quy định tại Nghị quyết 42, các tổ chức tín dụng sẽ không có quyền thu giữ tài sản bảo đảm nếu không có thỏa thuận với bên bảo đảm về việc quyền này.

Tuy nhiên, nếu có thỏa thuận này sẽ thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng khi thực hiện này nếu có khiếu nại, khiếu kiện các bên trong đó có cơ quan tài phán phải tôn trọng thỏa thuận được quy định trong Bộ luật dân sự khi giải quyết khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến thu giữ tài sản bảo đảm.

Thứ hai, Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.

Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.

Luật sư cho rằng cần có cơ chế phối hợp cụ thể khi thực hiện quy định trên bao gồm quy trình thực hiện, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm và tài chính (nếu có) cho công việc này.

Thứ ba, căn cứ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm, bao gồm cả quy định khi thực hiện việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm quy định tại khoản 6 Điều này.

Luật sư Nguyễn Huy Hoàng cho rằng quy định này là cần thiết để đảm bảo việc thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng có quy trình cụ thể, qua đó không chỉ đảm bảo quyền lợi của các tổ chức tín dụng, các chủ thể liên quan, đồng thời tránh việc lạm dụng quyền này khi thực hiện.

Theo luật sư, ngoài việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng, Chính phủ, cộng đồng trong đó có cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội … cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, … quy định này để việc việc thu giữ tài sản bảo đảm trở thành văn hóa, “thói quen” hành xử trong xã hội.

Bởi quy định cho dù có chi tiết, đầy đủ bao nhiêu cũng không đảm bảo rằng việc thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng sẽ không phát sinh tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện, gây khó khăn và tốn thêm chi phí không cần thiết.

Do đó, việc luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng chỉ là bước khởi đầu; cần quy định cụ thể và có cơ chế để đảm bảo thực thi và giám sát quy định này.

Quan trọng hơn là cần xây dựng văn hóa, thói quen tuân thủ quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm một cách văn minh, bình đẳng, tôn trọng quyền cơ bản của con người không chỉ ở các bên liên quan mà còn chính các tổ chức tín dụng và cơ quan nhà nước.

Có được như vậy sẽ thì quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng không còn chỉ là “một liệu pháp tâm lý để bảo đảm về mặt pháp lý, giúp khách hàng có trách nhiệm hơn với khoản vay và tránh bội tín”.