“Sẽ khó cho người có trách nhiệm xử phạt”
Hỏi chuyện chuyên gia về dự thảo Nghị định Xử phạt vi phạm hành chính trong thương mại
Ngày 16/7, Cục Quản lý thị trường, Bộ Thương mại phối hợp với Ban pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã tổ chức hội thảo góp ý xây dựng Nghị định Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.
Nhìn dưới quan điểm nghề nghiệp, theo ông Đào Nguyên Khải, Phó trưởng Văn phòng Luật sư Đào và đồng nghiệp, dự thảo Nghị định cần phải quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn và những quy định chỉ nên được hiểu theo một nghĩa. "Những quy định mang tính chất chung chung, đa nghĩa sẽ rất khó cho việc áp dụng trên thực tế và dễ phát sinh những tiêu cực trong việc thực hiện", ông nói.
Ông có thể đưa ra ví dụ chứng minh cụ thể?
Tại Khoản 5, Điều 5 của Dự thảo quy định “Trong thời hạn quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 Điều này, nếu cá nhân, tổ chức lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm...thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới”.
Ở đây có một vấn đề cần được làm rõ đó là phạm vi của thuật ngữ “lĩnh vực”.
Trong khuôn khổ của Dự thảo, nên hiểu phạm vi của thuật ngữ này như thế nào, theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa rộng thì lĩnh vực ở đây là lĩnh vực thương mại. Như vậy một chủ thể đã thực hiện một hành vi vi phạm nào đó được quy định trong Dự thảo này, trong thời gian còn thời hiệu xử lý vi phạm lại thực hiện bất kể một hành vi vi phạm khác nào đó cũng được quy định trong Dự thảo này thì thời hiệu xử phạt vi phạm của hành vi trước được tính lại kể từ thời điểm chủ thể đó thực hiện hành vi vi phạm sau.
Ví dụ, doanh nghiệp đã có vi phạm về Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời gian còn thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, doanh nghiệp A lại có vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính của hành vi vi phạm về Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp A lại được tính lại kể từ thời điểm doanh nghiệp A thực hiện hành vi vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì chỉ khi một chủ thể thực hiện hai hành vi vi phạm được quy định trong cùng một mục của Dự thảo tại hai thời điểm khác nhau thì mới đặt ra vấn đề tính lại thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
Ví dụ, doanh nghiệp A đã có vi phạm quy định về nhãn hàng hoá. Trong thời gian còn thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, doanh nghiệp A lại có vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính của hành vi vi phạm quy định về nhãn hàng hoá đối với doanh nghiệp A lại được tính lại kể từ thời điểm doanh nghiệp A thực hiện hành vi vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh.
Xin ông cho biết một vài đề xuất với Ban soạn thảo để Nghị định ban hành dễ thực thi hơn?
Nên chăng chúng ta quy định những hành vi tương tự như nhau vào cùng một điều, mục. Như vậy sẽ tạo ra sự nhất quán của Dự thảo, tránh nhắc đi nhắc lại và tạo ra sự thống nhất trong việc áp dụng trên thực tế.
Chẳng hạn, nên gộp những hành vi như nhập lậu hàng cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu (Khoản 9, Điều 22), nhập lậu hàng hoá cấm kinh doanh (Khoản 11, Điều 22), hành vi nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu mà không được phép (Khoản 2, Điều 33) vào một Điều trong Mục 5.
Xét về bản chất, hành vi nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc diện tạm ngừng nhập khẩu, các loại hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu mà không được phép của cơ quan quản lý nhà nước thì cũng là hành vi nhập lậu hàng hoá. Cùng một hành vi vi phạm nhưng chủ thể vi phạm lại có thể bị xử lý theo những mức độ khác nhau, ở những điều mục khác nhau rất có thể sẽ tạo ra một sự không thống nhất.
Với những phân tích trên, tôi chắc chắn rằng, trên thực tế sẽ phát sinh những vi phạm mà người có trách nhiệm xử phạt sẽ lúng túng khi không biết phải áp dụng mức xử phạt nào, ở điều mục nào, coi hành vi đó là nhập lậu hàng cấm nhập khẩu hay nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu để xử lý vi phạm.
Chính việc không biết áp dụng theo quy định nào, hoặc áp dụng theo quy định nào cũng đúng có thể sẽ phát sinh một thực tế là người vi phạm sẽ phải chịu một mức phạt không tương xứng với hành vi vi phạm.
Theo ông, có quy định nào trong Dự thảo còn chưa phù hợp với thực tế?
Tại Điểm a Khoản 1 Điều 48 có quy định cho thuê hàng hoá mà không có hợp đồng theo quy định thì bị phạt tiền từ 3 đến 5 triệu đồng. Hoặc Điểm a Khoản 1 Điều 51 đã quy định phạt tiền từ 1 đến 5 triệu đồng đối với hành vi đặt gia công hàng hoá trong thương mại mà không có hợp đồng theo quy định. Chúng tôi thấy có quan điểm chưa phù hợp với thực tế đó là giá trị của giao dịch.
Ví dụ như một cá nhân có đăng ký kinh doanh cho thuê băng đĩa nhạc. Hành vi cho thuê băng đĩa nhạc của người đó là hành vi thương mại. Theo quy định của Dự thảo mà chúng tôi vừa viện dẫn ở trên thì nếu cá nhân này khi cho người khác thuê 1 chiếc đĩa VCD mà không lập hợp đồng thì sẽ bị phạt từ 3 - 5 triệu đồng. Giá trị của giao dịch trên là rất nhỏ, cho thuê 1 đĩa VCD chỉ thu được một vài nghìn đồng.
Nếu quy định một mức phạt tiền quá cao cho một hành vi vi phạm rất nhỏ là bất hợp lý. Hơn nữa quy định cho thuê băng đĩa hình phải lập hợp đồng là một điều không cần thiết và không khả thi.
Vì vậy, theo chúng tôi, chúng ta nên định lượng mức độ của hành vi vi phạm về đặt gia công và cho thuê hàng hoá. Chỉ khi nào hành vi vi phạm lớn tới mức nhất định và gây thiệt hại cho xã hội thì mới bị xem xét xử phạt.
Theo ông, các quy định về trình tự, thủ tục xử lý trong Dự thảo đã hợp lý chưa?
Theo chúng tôi, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại là một vấn đề có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của các thương nhân, từ đó, có tác động mạnh đến nền kinh tế của đất nước.
Do vậy, Dự thảo nên quy định về trình tự, thủ tục xử lý vi phạm, áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo hướng đơn giản hơn, rút ngắn thời hạn xử lý hơn so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Ví dụ như đối với những vi phạm có chứng cứ rõ ràng, người vi phạm đã thừa nhận hành vi vi phạm thì phải ra quyết định xử phạt ngay, thời hạn tối đa là 10 ngày trong Pháp lệnh là quá dài và trong trường hợp này thì không cần tới thời gian dài như vậy.
Thực tế, chúng tôi đã gặp trường hợp một người kinh doanh hàng nhập lậu, thuê phương tiện vận chuyển, khi bị quản lý thị trường kiểm tra lập tức lập biên bản vi phạm thì người đó đã phải thừa nhận vi phạm và ký vào biên bản.
Sau đó, người này có nguyện vọng là được xử phạt sớm để giải phóng phương tiện vận chuyển, giảm bớt thiệt hại nhưng không được đáp ứng trong khi người lập biên bản là người có thẩm quyền xử phạt.
Nhìn dưới quan điểm nghề nghiệp, theo ông Đào Nguyên Khải, Phó trưởng Văn phòng Luật sư Đào và đồng nghiệp, dự thảo Nghị định cần phải quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn và những quy định chỉ nên được hiểu theo một nghĩa. "Những quy định mang tính chất chung chung, đa nghĩa sẽ rất khó cho việc áp dụng trên thực tế và dễ phát sinh những tiêu cực trong việc thực hiện", ông nói.
Ông có thể đưa ra ví dụ chứng minh cụ thể?
Tại Khoản 5, Điều 5 của Dự thảo quy định “Trong thời hạn quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 Điều này, nếu cá nhân, tổ chức lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm...thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới”.
Ở đây có một vấn đề cần được làm rõ đó là phạm vi của thuật ngữ “lĩnh vực”.
Trong khuôn khổ của Dự thảo, nên hiểu phạm vi của thuật ngữ này như thế nào, theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa rộng thì lĩnh vực ở đây là lĩnh vực thương mại. Như vậy một chủ thể đã thực hiện một hành vi vi phạm nào đó được quy định trong Dự thảo này, trong thời gian còn thời hiệu xử lý vi phạm lại thực hiện bất kể một hành vi vi phạm khác nào đó cũng được quy định trong Dự thảo này thì thời hiệu xử phạt vi phạm của hành vi trước được tính lại kể từ thời điểm chủ thể đó thực hiện hành vi vi phạm sau.
Ví dụ, doanh nghiệp đã có vi phạm về Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời gian còn thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, doanh nghiệp A lại có vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính của hành vi vi phạm về Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp A lại được tính lại kể từ thời điểm doanh nghiệp A thực hiện hành vi vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì chỉ khi một chủ thể thực hiện hai hành vi vi phạm được quy định trong cùng một mục của Dự thảo tại hai thời điểm khác nhau thì mới đặt ra vấn đề tính lại thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
Ví dụ, doanh nghiệp A đã có vi phạm quy định về nhãn hàng hoá. Trong thời gian còn thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, doanh nghiệp A lại có vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính của hành vi vi phạm quy định về nhãn hàng hoá đối với doanh nghiệp A lại được tính lại kể từ thời điểm doanh nghiệp A thực hiện hành vi vi phạm về kinh doanh hàng hoá cấm kinh doanh.
Xin ông cho biết một vài đề xuất với Ban soạn thảo để Nghị định ban hành dễ thực thi hơn?
Nên chăng chúng ta quy định những hành vi tương tự như nhau vào cùng một điều, mục. Như vậy sẽ tạo ra sự nhất quán của Dự thảo, tránh nhắc đi nhắc lại và tạo ra sự thống nhất trong việc áp dụng trên thực tế.
Chẳng hạn, nên gộp những hành vi như nhập lậu hàng cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu (Khoản 9, Điều 22), nhập lậu hàng hoá cấm kinh doanh (Khoản 11, Điều 22), hành vi nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu mà không được phép (Khoản 2, Điều 33) vào một Điều trong Mục 5.
Xét về bản chất, hành vi nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc diện tạm ngừng nhập khẩu, các loại hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu mà không được phép của cơ quan quản lý nhà nước thì cũng là hành vi nhập lậu hàng hoá. Cùng một hành vi vi phạm nhưng chủ thể vi phạm lại có thể bị xử lý theo những mức độ khác nhau, ở những điều mục khác nhau rất có thể sẽ tạo ra một sự không thống nhất.
Với những phân tích trên, tôi chắc chắn rằng, trên thực tế sẽ phát sinh những vi phạm mà người có trách nhiệm xử phạt sẽ lúng túng khi không biết phải áp dụng mức xử phạt nào, ở điều mục nào, coi hành vi đó là nhập lậu hàng cấm nhập khẩu hay nhập khẩu các loại hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu để xử lý vi phạm.
Chính việc không biết áp dụng theo quy định nào, hoặc áp dụng theo quy định nào cũng đúng có thể sẽ phát sinh một thực tế là người vi phạm sẽ phải chịu một mức phạt không tương xứng với hành vi vi phạm.
Theo ông, có quy định nào trong Dự thảo còn chưa phù hợp với thực tế?
Tại Điểm a Khoản 1 Điều 48 có quy định cho thuê hàng hoá mà không có hợp đồng theo quy định thì bị phạt tiền từ 3 đến 5 triệu đồng. Hoặc Điểm a Khoản 1 Điều 51 đã quy định phạt tiền từ 1 đến 5 triệu đồng đối với hành vi đặt gia công hàng hoá trong thương mại mà không có hợp đồng theo quy định. Chúng tôi thấy có quan điểm chưa phù hợp với thực tế đó là giá trị của giao dịch.
Ví dụ như một cá nhân có đăng ký kinh doanh cho thuê băng đĩa nhạc. Hành vi cho thuê băng đĩa nhạc của người đó là hành vi thương mại. Theo quy định của Dự thảo mà chúng tôi vừa viện dẫn ở trên thì nếu cá nhân này khi cho người khác thuê 1 chiếc đĩa VCD mà không lập hợp đồng thì sẽ bị phạt từ 3 - 5 triệu đồng. Giá trị của giao dịch trên là rất nhỏ, cho thuê 1 đĩa VCD chỉ thu được một vài nghìn đồng.
Nếu quy định một mức phạt tiền quá cao cho một hành vi vi phạm rất nhỏ là bất hợp lý. Hơn nữa quy định cho thuê băng đĩa hình phải lập hợp đồng là một điều không cần thiết và không khả thi.
Vì vậy, theo chúng tôi, chúng ta nên định lượng mức độ của hành vi vi phạm về đặt gia công và cho thuê hàng hoá. Chỉ khi nào hành vi vi phạm lớn tới mức nhất định và gây thiệt hại cho xã hội thì mới bị xem xét xử phạt.
Theo ông, các quy định về trình tự, thủ tục xử lý trong Dự thảo đã hợp lý chưa?
Theo chúng tôi, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại là một vấn đề có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của các thương nhân, từ đó, có tác động mạnh đến nền kinh tế của đất nước.
Do vậy, Dự thảo nên quy định về trình tự, thủ tục xử lý vi phạm, áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo hướng đơn giản hơn, rút ngắn thời hạn xử lý hơn so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Ví dụ như đối với những vi phạm có chứng cứ rõ ràng, người vi phạm đã thừa nhận hành vi vi phạm thì phải ra quyết định xử phạt ngay, thời hạn tối đa là 10 ngày trong Pháp lệnh là quá dài và trong trường hợp này thì không cần tới thời gian dài như vậy.
Thực tế, chúng tôi đã gặp trường hợp một người kinh doanh hàng nhập lậu, thuê phương tiện vận chuyển, khi bị quản lý thị trường kiểm tra lập tức lập biên bản vi phạm thì người đó đã phải thừa nhận vi phạm và ký vào biên bản.
Sau đó, người này có nguyện vọng là được xử phạt sớm để giải phóng phương tiện vận chuyển, giảm bớt thiệt hại nhưng không được đáp ứng trong khi người lập biên bản là người có thẩm quyền xử phạt.