12:48 18/08/2017

Sản phẩm xanh: Nhiều rào cản phải vượt qua

Lê Mây

Doanh nghiệp lo chi phí và cách thức thực hiện

Viện Nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ (FiBL) thống kê, diện tích sản xuất 
nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đạt trên 43.000 ha, đứng thứ 56/172 nước
 trên thế giới, thứ 3 trong ASEAN.
Viện Nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ (FiBL) thống kê, diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đạt trên 43.000 ha, đứng thứ 56/172 nước trên thế giới, thứ 3 trong ASEAN.
Để có sản phẩm sạch, yếu tố cần thiết đầu tiên là công đoạn sản xuất nguyên liệu. Trong khi chi phí sản xuất sạch cao hơn rất nhiều so với sản xuất truyền thống. Chi phí cao nhưng giá thành phẩm chưa được người tiêu dùng đón nhận, đây chính là yếu tố làm nản lòng nhà sản xuất.

Ông Nguyễn Phúc Khoa, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) cho biết, cái khó của sản xuất xanh là chi phí khá cao nên giá thành sản phẩm cao hơn sản phẩm thông thường. Vì thế, chỉ một thời gian ngắn thí điểm, sản phẩm gạo sạch ở An Giang do tỉnh hỗ trợ trên 37,8 ha đã phải từ bỏ.

Lo ngại chi phí quá lớn

Ngay mặt hàng gạo Oganic mà Satra sản xuất cũng mất rất nhiều công sức. Công ty phải mất 2 năm chuẩn bị mới có thành phẩm gạo sạch. Chi phí đầu tư cho 1 kg gạo Vietgap cao hơn 12.000 đồng/kg so với sản xuất gạo thông thường nên gạo thành phẩm phải bán trên 30.000 đồng thì doanh nghiệp mới thu hồi được vốn. Tuy nhiên, đối tượng khách hàng cũng chưa rộng bởi mức thu nhập của người dân còn thấp.

Theo bà Vũ Thị Quyền, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn nông nghiệp nhiệt đới Tp.HCM, nhiều người nhầm tưởng nông nghiệp xanh là nông nghiệp hữu cơ nhưng thực tế là nông nghiệp xanh lại là cả quá trình sản xuất hạn chế tác động đến môi trường và con người. Theo đó, nguồn đất trồng phải sạch và chỉ được bổ sung các loại dinh dưỡng hữu cơ.

Viện Nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ (FiBL) thống kê, diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đạt trên 43.000 ha, đứng thứ 56/172 nước trên thế giới, thứ 3 trong ASEAN.

Theo Cục Trồng trọt, đến hết năm 2016, cả nước có 26 cơ sở sản xuất hữu cơ ở 15 tỉnh, thành, với tổng diện tích 4.100 ha. Chủ yếu trồng dừa, chè, lúa, rau. Một số mô hình có kết quả khá hiệu quả như nuôi cá hữu cơ (An Giang), tôm sinh thái ở rừng ngập mặn Cà Mau. Hiện tôm và cá đã có chứng nhận hữu cơ với tổng diện tích 10.000 ha, xuất khẩu sang EU. Một số doanh nghiệp đi đầu trong sản xuất hữu cơ như Cty Viễn Phú sản xuất lúa, cá tại Cà Mau, Cty Oganic Đà Lạt sản xuất rau hữu cơ.

Một trong những vấn đề quan tâm đối với khái niệm sản xuất sạch hơn trong nông nghiệp là tạo ra các sản phẩm an toàn. Nhiều cơ quan, tổ chức tại nhiều địa phương đã có những nghiên cứu và xây dựng nhiều mô hình sản xuất an toàn.

Đến tháng 6/2017, cả nước có 1.390 cơ sở có chứng nhận Vietgap đang còn hiệu lực, với 18.235,81 ha, trong đó cà phê chiếm 127 ha, chè là 1.933,8 ha, lúa là 993,5 ha, cây ăn trái chiếm 10.796 ha, rau là 4.385 ha.

Nhiều rào cản phải vượt qua

Sau khi Chính phủ ban hành Quyết định số 899 ngày 10/6/2013 phê duyệt Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng cao, phát triển bền vững. Việt Nam đã thành lập Hội đồng Quốc gia về phát triển bền vững để thúc đẩy tăng trưởng xanh quốc gia.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã thành lập Ban chỉ đạo về phát triển bền vững từ năm 2013 để cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2015-2020, trong đó lồng ghép nội dung chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020 vào quá trình hoạch định chính sách.

Mặc dù xuất khẩu nông sản của Việt Nam tiếp tục tăng lên, nhưng tăng trưởng đi ngang và đóng góp trong nhóm hàng hoá xuất khẩu lại có xu hướng giảm. Thị phần nhiều loại nông sản chủ lực của Việt Nam trên thị trường thế giới ổn định nhưng dư địa cho xuất khẩu nông sản thô của Việt Nam đang hẹp dần.

Đơn cử như gạo Việt Nam chiếm thị phần không đáng kể tại các thị trường có giá trị lớn nhất thế giới và đang suy giảm thị phần tại các thị trường chính. Điều đáng suy ngẫm hơn, Việt Nam chỉ chiếm thị phần nhỏ bé (1%) trên thị trường xuất khẩu rau quả có trị giá hơn 140 tỷ USD, chỉ xuất sang Trung Quốc  là chính nhưng cũng có khuynh hướng giảm từ 2009 đến nay.

Hiện ngành nông nghiệp chủ yếu sản xuất theo định hướng xuất khẩu, trong khi thị trường nội địa tăng trưởng nhanh, nhu cầu đa dạng và ngày càng mở rộng. Theo dự báo của các chuyên gia, thị trường nội địa sẽ tăng đối trọng với thị trường xuất khẩu trước những thay đổi lớn về điều kiện kinh tế, xã hội. Do vậy, làm nông nghiệp cần có tầm nhìn vượt lên hoạt động sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu của Việt Nam.

Vấn đề an toàn thực phẩm sẽ rất khó kiểm soát bởi hoạt động sản xuất, chế biến, đóng gói phần lớn các mặt hàng đều thực hiện ngoài địa phương. Lượng rau trồng tại Tp.HCM mới chỉ cân đối được 25,5%, nhu cầu thị trường, còn lại phải nhập từ các tỉnh. Phương pháp sản xuất truy xuất nguồn gốc vẫn gặp khó khăn do những vùng không có mạng thông tin thì khó truy xuất.

Tiếp đó là việc gắn từng con chíp, tem dán trên từng sản phẩm sẽ làm tốn chi phí, đội giá thành. Vòng gắn cho heo hiện được Tp.HCM tài trợ, nhưng vẫn có một số lượng heo về chợ đầu mối Bình Điền chưa đeo vòng. Do vậy, cần có nhiều bên tham gia vào quy trình sản xuất sạch để giảm chi phí và phổ cập thông tin đến người dân mọi vùng miền. Ngoài ra, để có sản phẩm xanh, cần phải đầu tư, chấp nhập một phần chi phí.