Vẫn còn nhiều rào cản để hàng Việt vào thị trường châu Mỹ
Năm 2020, tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và châu Mỹ đạt gần 111,5 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2019...
Sau hai năm thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, xuất khẩu của Việt Nam đã có tín hiệu tích cực, tuy nhiên kết quả chưa được như kỳ vọng do nhiều hạn chế, tồn tại vẫn còn.
NHỮNG “NÚT THẮT” LỚN
Châu Mỹ là thị trường nổi lên trong bức tranh xuất khẩu của Việt Nam sang khối CPTPP. Năm 2020, tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và châu Mỹ đạt gần 111,5 tỷ USD, tăng 16 % so với năm 2019. Trong đó, xuất khẩu đạt 89,7 tỷ USD, tăng 21,7% và chiếm tỷ trọng 31,7% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam.
Những con số này khẳng định, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đã mở rộng đường cho hàng Việt sang châu Mỹ, vốn rất mới mẻ và tiềm năng.
Song tại hội thảo “Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương – Cơ hội mở rộng thị trường châu Mỹ cho hàng xuất khẩu Việt Nam”, ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương thừa nhận, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức trong hợp tác kinh doanh. Đó là khoảng cách địa lý xa xôi, chưa có tuyến vận tải hàng hóa và hành khách trực tiếp.
Cùng với đó là sự khác biệt về ngôn ngữ, việc thiếu thông tin cập nhật về tiếp cận thị trường. Để có thể hưởng thuế ưu đãi xuất khẩu, doanh nghiệp vẫn đang gặp một số khó khăn lớn như vấn đề đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ, vấn đề chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường...
Bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng, Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) chỉ ra 4 thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường CPTPP. Đó là việc đáp ứng quy tắc xuất xứ để hàng hoá được hưởng ưu đãi. Đây là điều kiện tiên quyết để hàng hoá được hưởng ưu đãi thuế quan.
Một điểm nữa, hạn chế về khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp do khoảng cách địa lý xa. Trong khi đó, năm 2020 hoạt động xúc tiến thương mại bị ảnh hưởng ít nhiều do dịch bệnh, tuy rằng Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp hỗ trợ thúc đẩy giao thương qua môi trường mạng.
Bên cạnh đó, việc đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đặc biệt các mặt hàng nông thuỷ sản. Theo bà Trang, mặc dù, các Hiệp định thương mại tự do mang đến cơ hội về thuế quan, nhưng nó không tác động đến yêu cầu chất lượng hàng hoá.
Trong khi đó, các sản phẩm nông sản thời gian qua đã cải thiện ít nhiều, nhưng vẫn còn thiếu sự đồng bộ nên khó khăn trong đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu. “Nếu không khắc phục được tình trạng này thì hàng hoá của chúng ta khó thâm nhập vào các thị trường có yêu cầu cao về chất lượng”, bà Trang nhấn mạnh.
Ngoài ra, một số lượng doanh nghiệp chưa nắm vững được cam kết của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Thân Đức Việt, Tổng giám đốc công ty May 10 cũng đồng tình, tỷ trọng xuất khẩu vào Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương của May 10 vẫn còn khiêm tốn. Khó khăn nhất, May 10 chưa đẩy mạnh được tỷ trọng xuất khẩu vào một số nước trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đó chính là nút thắt về nguồn nguyên liệu và quy tắc xuất xứ.
Khảo sát sau 2 năm thực hiện Hiệp định cho thấy, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương khá nổi tiếng nên doanh nghiệp biết đến nhiều. Song để hiểu rõ, nắm sâu về hiệp định này thì chưa nhiều doanh nghiệp làm được. Trong khi đó, đây là điều kiện quan trọng để tận dụng được ưu đãi thuế quan từ hiệp định.
Bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu, Bộ Công thương.
Trong khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu chỉ yêu cầu xuất xứ từ vải, thì với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương yêu cầu từ sợi.
Không chỉ với sợi, chỉ may trong hàng may mặc dù chiếm giá thành rất nhỏ nhưng nếu không có xuất xứ tại Việt Nam thì cũng không được hưởng ưu đãi thuế quan vào thị trường Canada. Chỉ may có hàng trăm ngàn chủng loại, có loại chỉ may có công đoạn chưa làm được ở Việt Nam.
CHỦ ĐỘNG ĐỂ HƯỞNG LỢI
Để tận dụng hiệu quả hiệp định, bà Trang cho rằng, còn nhiều điều cần phải làm, cần những giải pháp mạnh hơn nữa, mới hơn nữa.
Với cơ quan quản lý nhà nước, cần nâng cao hiệu quả của công tác thực thi. Tiếp tục rà soát các quy định của văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Bởi đây là tiền đề để tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như xuất khẩu của doanh nghiệp.
Một yếu tố nữa, đó là công tác thông tin. Thông tin gồm 2 nội dung đó là các cam kết, các ưu đãi thuế quan và quy định về quy tắc xuất xứ. Bà Trang cho biết việc này chúng ta đã làm khá nhiều trong thời gian qua nhưng đâu đó vẫn còn chưa thực sự hiệu quả.
Do vậy, trong thời gian tới cần thực hiện chuyên sâu hơn nữa, đi vào từng thị trường cụ thể, mặt hàng cụ thể, có những buổi tập huấn chuyên biệt để có tác động rõ rệt hơn với những đối tượng cụ thể.
Hơn nữa, thông tin về thị trường nhập khẩu, thị hiếu cũng như dung lượng của thị trường nhập khẩu, đặc biệt những chính sách quản lý của thị trường nhập khẩu. Đây là những thông tin doanh nghiệp rất cần để định hướng cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần nâng cao sự chủ động của mình trong nắm bắt thông tin về hiệp định. “Qua theo dõi chúng tôi thấy sự quan tâm của doanh nghiệp với các Hiệp định thương mại tự do ngày càng tăng thêm nhưng dường như chúng ta chưa có đủ sự chủ động. Chủ yếu chúng ta hỏi về quy tắc xuất xứ, giấy chứng nhận xuất xứ là bởi đối tác nhập khẩu yêu cầu cần phải có”, bà Trang nhấn mạnh.
“Các doanh nghiệp cần tự mình tìm hiểu các quy định này để đi đàm phán với đối tác, thuyết phục họ hãy mua hàng của tôi. Vì nếu mua hàng của tôi các ông sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan như thế này… và so sánh với các quốc gia khác nằm ngoài khu vực”, bà Trang đề xuất.
Hơn nữa, khi bước vào sân chơi mới, các doanh nghiệp cần phải thay đổi tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình và có sự chuẩn bị bài bản hơn về nhân lực, tài lực để tiếp cận được thị trường mới. Đó là những yếu tố quyết định doanh nghiệp có được hưởng lợi hay không và được hưởng lợi bao nhiêu từ hiệp định.