VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới
VnEconomy

VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới

icon-scroll

VnEconomy

Chỉ nửa tháng sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập trên Quảng trường Ba Đình, ngày 18/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ giới doanh nhân nhằm tranh thủ sự ủng hộ đối với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư để khuyến khích giới doanh nhân tham gia Mặt trận Việt Minh và thành lập “Công - Thương cứu quốc đoàn”.

Trong thư, Người cho rằng giới Công - Thương đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế tài chính mạnh mẽ và mối liên hệ chặt chẽ giữa sự thịnh vượng của doanh nghiệp và sự phát triển của quốc gia. Lực lượng doanh nhân Việt Nam đã thể hiện sự tiên phong trong sự nghiệp vì lợi ích của quốc gia và dân tộc trong suốt những năm qua.

Người bày tỏ: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công - Thương nỗ lực và khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập vào “Công - Thương cứu quốc đoàn” cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân”.

Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đồng thời phát huy vai trò truyền thống của họ trong việc khuyến khích các tầng lớp xã hội góp phần xây dựng và phát triển doanh nghiệp.

Theo đề nghị của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hiệp hội doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 990/QĐ-TTg ngày 20/9/2004, về Ngày Doanh nhân Việt Nam, hằng năm lấy ngày 13/10 là “Ngày doanh nhân Việt Nam”.

Việc Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 13/10 là Ngày Doanh nhân Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Đó chính là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giới Công - Thương Việt Nam ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

80 năm đã trôi qua, hôm nay nhớ lại thuở bình minh của cách mạng Dân chủ Cộng hòa, chúng ta lại nhớ tới những vị doanh nhân, những nhà tư sản dân tộc đã cống hiến hết mình cho đất nước và cách mạng thuở còn “trứng nước”.

VnEconomy

Doanh nhân Bạch Thái Bưởi là một trong bốn người được xếp vào danh sách những doanh nhân giàu nhất miền Bắc ở thế kỷ XX. Sự nghiệp kinh doanh xuyên suốt của doanh nhân này gắn với tinh thần dân tộc. Điều này không chỉ giúp ông “đánh bại” các đối thủ để thành công, mà còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ doanh nhân Việt Nam.

Dưới thời thuộc địa, các nhà buôn của ta bước ra thương trường cũng là bước vào một cuộc cạnh tranh với tư bản các nước như: Hoa kiều, Pháp kiều… Việc kinh doanh của doanh nhân Bạch Thái Bưởi cũng không ngoại lệ, khi liên tục vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt của đối thủ.

Sự việc này bắt đầu từ năm 1909. Khi hãng Marty - D’Abbadie vừa hết hạn ký hợp đồng với Nhà nước, ông thuê ngay 3 chiếc tàu của hãng này và đổi lại thành tên Việt: Phi Phượng, Phi Long và Bái Tử Long. Từ đây, Bạch Thái Bưởi cho tàu của mình chạy tuyến Nam Định - Hà Nội và Nam Định - Bến Thủy. Đây là những tuyến đường thủy luôn đông khách, nhưng trước chỉ có người Hoa và người Pháp thống lĩnh.

Một thời gian sau, khi nghe tin công ty chuyên chở đường biển Deshwanden phá sản, ông quyết định mua nốt 6 chiếc thuyền và một số sà lan của công ty này để không lọt vào tay người Hoa, người Pháp mặc dù tàu khá cũ và nát. Hành động này của ông đã làm nhiều người Việt vui mừng. Không những thế, ông còn lấy tên anh hùng dân tộc như: Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi, để đặt tên cho tàu.

Đến năm 1919, Công ty Bạch Thái có tổng 20 tàu nhỏ, chưa kể thuyền phụ, 20 sà lan bằng gỗ, sắt, 13 cầu tàu đứng, 16 chiếc cầu tàu nổi. Các tàu này chạy 17 tuyến đường thủy: Hà Nội - Nam Định, Hải Phòng - Bến Thủy, Hải Phòng - Nam Định… thậm chí lên vùng thượng du Bắc Kỳ.

Với phương tiện đa dạng, lại nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, Bạch Thái Bưởi cho sửa sang lại nội thất các tàu, giảm giá cho người Việt. Các tàu của Bạch Thái Bưởi rất được lòng người Việt và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Thời đó, mỗi năm, công ty của Bạch Thái Bưởi chuyên chở tới 5.000 chuyến, trên dưới 1,5 triệu hành khách, hơn 15 vạn tấn hàng.

Trước sự phát triển của công ty Bạch Thái Bưởi, các chủ tàu người Hoa quyết đánh bại ông bằng đủ mọi cách, như hạ giá sâu. Cuộc cạnh tranh về giá với các thương nhân người Hoa đã khiến việc kinh doanh của ông đứng bên bờ vực phá sản.

Mặc dù vậy, trong “cái khó ló cái khôn”, trong “nguy có cơ”, Bạch Thái Bưởi đã vận dụng tinh thần dân tộc khuyến khích người Việt đi tàu của người Việt. Ông đã viết “tâm thư” kêu gọi tinh thần dân tộc đoàn kết tương trợ nhau. Để thu hút sự ủng hộ của khách, ông cho dán dòng chữ “Người ta thì đi tàu ta” lên mỗi chiếc thuyền và bỏ một cái ống để ai đồng tình với ông, thì bỏ tiền vào đó để tiếp sức cho chủ tàu. Khách đi tàu của ông ngày càng đông. Về sau, các chủ tàu người Hoa, người Pháp đã phải bán lại tàu cho ông.

Nhờ tinh thần dân tộc - thứ vũ khí lợi hại, ông đã đánh bại các đối thủ “đáng gờm” người Hoa, Pháp vượt qua “cửa tử” để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt và trở thành “Vua tàu thủy Việt Nam”. Ông cũng được xem là doanh nhân đầu tiên áp dụng tinh thần dân tộc “Người Việt ủng hộ người Việt” trong kinh doanh.

VnEconomy

Trước cách mạng, ông chủ nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ là một “Mạnh Thường Quân” của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ngô Tử Hạ quê ở Quy Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.

Sau vài năm dành dụm, ông đã mua được máy in và mở cơ sở in của riêng mình. Sau đó, ông mua thêm nhiều máy in loại hiện đại, mở rộng phát triển ngành in và trở thành người nổi tiếng nhất Đông Dương trong lĩnh vực in ấn, là một trong 300 nhà tư sản giàu nhất Đông Dương thời đó.

Đầu năm 1945 ông tham gia Mặt trận Việt Minh. Các nhà in của ông trở thành cơ sở in sách báo, tài liệu tuyên truyền cổ động của Việt Minh.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu làm đại biểu Quốc hội, rồi Ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I và là đại biểu cao tuổi nhất.

Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan.

Năm 1960, gia đình cụ làm đơn xin hiến cho Chính phủ toàn bộ bất động sản mà gia đình đang sở hữu, gồm: nhà 24-48 Lý Quốc Sư, nhà 2/12 Ngõ Huyện, biệt thự 60 Nguyễn Du, số nhà 8 Lý Quốc Sư, nhà số 4 ngõ 338 Thịnh Yên, nhà số 31 Hàng Bông, chỉ giữ lại 200m2 để làm chỗ ở và nơi thờ tự.

VnEconomy

Nguyễn Sơn Hà được biết đến như là người khai sinh nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam và là một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình có 7 anh chị em.

Năm 1917, sau thời gian dài làm cho hãng sơn Pháp Sauvage Cottu, Nguyễn Sơn Hà trở thành chủ của một công ty nhỏ thầu các việc sơn vôi, kẻ biển và âm thầm chế tạo thử sơn dầu. Vài năm sau, Hãng sơn Gecko của ông đã chiếm lĩnh thị trường.

Năm 1939, trong một lần vào Nam, ông tới thăm cụ Phan Bội Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Cuộc gặp gỡ này đã tác động sâu sắc đến ông, sau đó ông đã tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội Ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền Bá quốc ngữ.

Cụ Nguyễn Văn Tố đã thân hành về Hải Phòng đề nghị ông làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng, Kiến An. Là nhà tư sản lớn và có uy tín, nên khi ông đứng ra làm Hội trưởng thì mọi tầng lớp nhân dân ở Hải Phòng, Kiến An ủng hộ rất mạnh.

Ông Nguyễn Sơn Hà là người có công rất lớn trong việc truyền bá quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo. Trong nạn đói năm Ất Dậu (1945), ông đã liên lạc với bạn bè cùng chí hướng, thuyết phục những người giàu có lập Hội Cứu tế để giúp đỡ dân nghèo. Ông cũng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói.

Trong Tuần lễ Vàng do Chính phủ phát động, ông tích cực đóng góp tiền vàng và vận động các nhà tư sản khác và nhân dân mọi tầng lớp tham gia. Gia đình ông trong lần ủng hộ đầu tiên đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình, gồm vàng bạc, đá quý cân được 10,5 kg.

Vào những ngày đầu của “Toàn quốc kháng chiến”, ông cùng với các doanh nhân như Bùi Hưng Gia, Ngô Tử Hạ... đã tình nguyện hiến tài sản cho cách mạng.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Nguyễn Sơn Hà đã cùng người em rể dùng tiền của ông ở đại lý sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón tù chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào ngày 23/9/1945.

Ông Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên và tham gia cách mạng khi kháng chiến bùng nổ. Ông là người đã giúp bộ đội làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa, chế tạo được lương khô và thuốc ho…

Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khóa II, III, IV, V.

VnEconomy

Doanh nhân Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi (thuộc Cổ Nhuế, Từ Liêm (cũ), Hà Nội), có bố là thư ký cho một chủ đồn điền Pháp nhưng mất sớm. Ông Thiện được mẹ nuôi dưỡng cho học chữ Nho và chữ Quốc ngữ rồi sang Pháp du học.

Tại Pháp, ông học trường Đại học Canh Nông (Toulouse), vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1928. Ông bị cảnh sát Pháp bắt giữ khi trao truyền đơn cách mạng cho những binh sỹ người Việt Nam đang trên đường hồi hương, bị kết án 4 tháng tù và bị trục xuất về nước.

Khi về nước, ông vẫn tiếp tục bị kiểm soát gắt gao, không thể trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông chuyển sang làm kinh tế, mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi dựng nhà máy, lập đồn điền… để khi có điều kiện sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí mình hoạt động.

Năm 1946, trước khó khăn của Đảng không có nhà in riêng để in tiền, ông mua lại nhà in của Pháp và hiến cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3/1946, nhà máy in tiền Tôpanh được chuyển về đồn điền Chi Nê (Lạc Thủy, Hòa Bình) của gia đình ông.

Ông được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương ở Hà Nội, đóng góp nhiều tiền, vàng cho chính quyền cách mạng. Không những vậy, ông còn mua đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sỹ Nguyễn Sáng vẽ với giá một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lạng vàng), sau đó tặng cho Ủy ban Kháng chiến hành chính Thành phố Hà Nội.

Việc làm này của ông được đánh giá là để nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời để tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng.

Lúc mới giành được chính quyền, Nhà nước chưa có bộ phận lễ tân chuyên trách, do vậy việc tiếp các vị khách đặc biệt được giao cho một số gia đình có điều kiện ở Hà Nội. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai của gia đình ông bà Thiện trở thành "nhà khách" của Chính phủ.

Đồn điền Chi Nê trở thành nơi dưỡng quân cho các đơn vị trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, điểm dừng chân của nhiều lãnh đạo Đảng. Từ cuối năm 1945 đầu năm 1946, nơi đây còn là cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang Chiến khu 2.

Trong chuyến đi Pháp năm 1946, ông trở thành thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1947, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con nhỏ lên Việt Bắc theo cuộc kháng chiến 9 năm.

Ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam).

VnEconomy

Ông Trịnh Văn Bô là con út trong gia đình 3 anh chị em, cha là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có. Bà Minh Hồ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của chồng.

Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ đặt cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất này từng là nơi ở của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây, Bác đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên Ngôn độc lập.

Thời điểm 1940, ông Trịnh Văn Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà Thành, giao thương với cả các bạn hàng ở Đông Dương, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh bất động sản. Trong "Tuần lễ Vàng”, gia đình ông đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Không những thế, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động “Tuần lễ Vàng”.

Năm 2014, Bộ Tài chính đã biên soạn cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của cá nhân ông và gia đình đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

VnEconomy

Doanh nhân Vương Thị Lai là người đầu tiên của nước Việt Nam mới đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huy chương Vàng. Bà Lai vốn là chủ hiệu buôn tơ lụa Lợi Quyền tại Hà Nội.

Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền mới ra đời gặp phải muôn vàn khó khăn, bà đã mang tài sản mà mình có được nhờ lao động với mồ hôi, nước mắt để ủng hộ cách mạng. Bà đã đóng góp 109 lạng vàng cho cách mạng trong "Tuần lễ Vàng" đầu tiên ở Hà Nội, mặc dù hai con đang học tập tại Pháp, nhưng bà vẫn cống hiến cả gia tài cho cách mạng.

Trân trọng sự đóng góp của bà, ngày 10/11/1945, Hội Phụ nữ đã tổ chức “Ngày phụ nữ ủng hộ Nam Bộ kháng chiến” và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự, mang theo tấm Huy chương bằng vàng hình ngôi sao năm cánh tặng cho bà Vương Thị Lai. Đó là tấm huy chương đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho một công dân của nước Việt Nam mới. “Vương Thị Lai là đại biểu cho lòng hăng hái và hy sinh”, đó là lời đánh giá của Bác Hồ đối với bà Vương Thị Lai.

Bà Lai sau đó đã lặng lẽ tiếp tục đem vàng, tiền mua thóc ủng hộ quỹ cứu đói, ủng hộ bộ đội, giúp tự vệ thành kháng chiến chống Pháp trong những ngày cuối năm 1946. Bà Vương Thị Lai sau này tham gia Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội, là ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới của Việt Nam và ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Việt Nam.

VnEconomy

Trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng đầu thế kỷ XX không thể không nhắc đến doanh nhân Trần Văn Thành tức Hưng Ký là một trong những nhà Tư sản tiêu biểu đầu tiên của Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX.

Ông Trần Văn Thành người gốc Hoa ở Sài Gòn ra lập nghiệp ở Hà Nội, ông lấy vợ là bà Vũ Thị Sau, người làng Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (cũ). Bắt đầu công việc kinh doanh, sản xuất của ông từ việc mua lại hãng Briqueteries et Tuileries du Tonkin ở Cầu Đuống vào năm 1921, một cơ sở sản xuất còn khá khiêm tốn. Trần Văn Thành đã phát triển lên ba lò liên hoàn, sản xuất gạch hai lỗ và ngói lợp loại 22 viên/m2. Tất cả các sản phẩm đều được dập logo mang tên Hưng Ký. Gạch ngói Hưng Ký nổi tiếng trên toàn cõi Đông Dương và chỉ có gạch, ngói Hưng Ký mới đủ sức cạnh tranh với gạch Satic của Pháp.

Ông Trần Văn Thành có đầu óc kinh doanh nhạy bén, sớm tiếp thu kỹ nghệ tiên tiến, vì vậy sản phẩm của ông được khắp trong và ngoài nước ưa dùng. Gạch, ngói Hưng Ký đã in dấu trong nhiều công trình kiến trúc tại Hà Nội, Bắc Kỳ, Lào, Campuchia, Singapore làm rạng rỡ cho nền thương nghiệp nước nhà. Pháp tổ chức hội trợ Mác - xây, Trần Văn Thành mang hàng sang dự và được thưởng huân chương và tiền thưởng.

Không chỉ góp phần làm rạng rỡ nền thương nghiệp nước nhà, Nhà máy Gạch Hưng Ký (thuộc huyện Sóc Sơn cũ) của doanh nhân Trần Văn Thành còn là nơi Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập vào tháng 8/1929. Cũng tại đây đầu năm 1947, các chiến sỹ quân báo và du kích đã hai lần treo cờ đỏ, sao vàng trên đỉnh ống khói nhà máy khích lệ, động viên tinh thần đấu tranh cách mạng của quân và dân địa phương.

VnEconomy

Ông Trịnh Đình Kính sinh năm 1886, tại làng Đôn Thư, xã Kim Thư, huyện Thanh Oai (nay thuộc Hà Nội), trong một gia đình dòng dõi, giàu truyền thống cách mạng.

Năm 10 tuổi, Trịnh Đình Kính rời quê lên Hà Nội sinh sống và phải đi làm thuê cho các chủ làm thủy tinh. Sau này thấy được sự khéo léo, thông minh và trung thực của ông nên được ông thầy người Hoa nhận làm con nuôi và truyền nghề cho.

Năm 28 tuổi, ông Kính nắm trong tay tất cả những ngón nghề làm thủy tinh và đến năm 1914, ông trở thành chủ của một xưởng sản xuất thủy tinh ở số 65 Hàng Bồ có tên là Thanh Đức. Xưởng thủy tinh Thanh Đức ban đầu cũng chỉ sản xuất những mặt hàng quen thuộc như thông phong, hay lọ đựng bánh kẹo,… phục vụ chủ yếu cho tầng lớp dân nghèo.

Tuy nhiên, sau đó ông đã khắc phục được hạn chế của thủy tinh nội địa, là người đầu tiên tạo ra được thứ thủy tinh màu ở Việt Nam và còn sáng tạo ra loại nồi nấu thủy tinh mới bằng đất chịu lửa. Để rồi từ chỗ coi thường, khinh miệt sản phẩm thủy tinh Thanh Đức, những người Pháp và người giàu ở Việt Nam đã dần phải quên đi sự phân biệt hàng Pháp và hàng Việt Nam.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, lần đầu tiên sản phẩm thủy tinh của Thanh Đức đã bước vào chiếm vị trí trang trọng trong nhà Gô-đa ở Hà Nội (siêu thị đầu tiên ở Việt Nam do người Pháp quản lý). Sau khi đã công nhận sản phẩm của xưởng Thanh Đức, Gô-đa ký hợp đồng nhận hàng của ông Trịnh Đình Kính, dán tem Gô- đa và bày bán trên thị trường Đông Dương. Mỗi cái ly uống cà phê do xưởng Thanh Đức sản xuất lúc đó bán ở ngoài giá tám xu, nhưng Gô-đa nhập cho ông với giá hai hào.

Các nước thuộc địa Pháp bắt đầu đặt hàng trực tiếp với Thanh Đức. Thanh Đức bắt đầu một thời kỳ sản xuất theo đơn đặt hàng với những mặt hàng ngày một phong phú và phức tạp hơn, như bóng đèn lớn đường kính tới 45cm, những sản phẩm thủy tinh màu trắng sứ, sản phẩm thủy tinh có khắc hoa văn. Ông Kính là người đầu tiên ở xứ Đông Dương nằm dưới sự cai trị của người Pháp đã chế ra máy vẽ hoa văn trên thủy tinh. Tiếp đó ông đã thành công trong một công nghệ mới: công nghệ gọt thủy tinh.

Với thành công nói trên, ông Trịnh Đình Kính đã làm cho những người Pháp từ bỏ ý định cho sản phẩm thủy tinh của họ quay lại Đông Dương một lần nữa. Ông Trịnh Đình Kính đã được Vua Bảo Đại tặng Nam Long Bội Tinh vì những cống hiến của ông đã làm sáng mặt người Việt Nam trong kiếp nô lệ. Sản phẩm thủy tinh Thanh Đức từng bước chinh phục khách hàng và 16 lần được tặng huy chương vàng Hội chợ Đông Dương.

Sau Gô-đa và thị trường các nước thuộc địa của Pháp, đến lượt các bệnh viện và Viện Pasteur Hà Nội và Sài Gòn đặt hàng xưởng Thanh Đức sản xuất các sản phẩm thủy tinh để đựng thuốc và dùng cho phòng thí nghiệm. Cùng với sự lớn mạnh của thủy tinh Thanh Đức là sự biến mất dần dần của các xưởng thủy tinh người Hoa ở Hà Nội và các nơi khác ở Việt Nam. Cơ sở Thanh Đức còn tiến hành truyền dạy nghề và những ông chủ thủy tinh người Việt mới lúc đó đều do xưởng thủy tinh Thanh Đức đào tạo.

Ngoài ra, ông còn nghiên cứu và chế tạo thành công một loại nồi nấu thủy tinh mới bằng đất chịu lửa để thay thế sản phẩm vốn phải nhập từ Trung Quốc. Sản phẩm thủy tinh do ông sản xuất không chỉ chiếm lĩnh thị trường Đông Dương mà còn được xuất qua Pháp và các nước thuộc địa khác.

Trịnh Đình Kính được phong là ông hoàng thủy tinh xứ Đông Dương. Năm 1945 ông Kính đã bỏ tiền vàng – số tiền thu được nhờ kinh doanh để cứu đói nhân dân. Trong năm ấy, ông đã mang hai vạn tiền Đông Dương và gạo về cứu đói những người dân quê ông. Cách mạng tháng Tám thành công, nhà tư sản Trịnh Đình Kính đã hằng tâm hằng sản với cách mạng. Ông chính là một trong những người giàu ở Hà Nội hăng hái tham gia Tuần lễ Vàng. Ông bê một hộp đồ trang sức vài kilogram với hơn trăm cây vàng lá để ủng hộ cách mạng.

Ngôi nhà của ông ở số 65 Hàng Bồ đã trở thành nơi ăn ở cho nhiều đại biểu Quốc hội khóa I. Năm 1947, Pháp bắt ông giam nhiều ngày trong Hỏa Lò vì tội ủng hộ Việt Minh. Sau ngày Hòa bình lặp lại, xưởng thủy tinh Thanh Đức tiếp tục sản xuất đồ dùng thủy tinh cho các cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Sau hòa bình một thời gian, xưởng thủy tinh Thanh Đức thành tài sản của Nhà nước.

Năm 1951, ông Trịnh Đình Kính mở thêm xưởng sản xuất giày cao su hiệu Con Nghê, rồi sản xuất giày vải cho bộ đội. Hòa bình lập lại, xưởng thủy tinh Thanh Đức tiếp tục sản xuất đồ dùng thủy tinh cho các cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Sau này, xưởng thủy tinh Thanh Đức của ông Trịnh Đình Kính đã trở thành tài sản của Nhà nước.

VnEconomy

Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-3536-2025.html

VnEconomy
VnEconomy

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: