

Trải qua gần 40 năm đổi mới, kinh tế nước ta trở thành một trong những nền kinh tế năng động, với quy mô GDP tăng vượt bậc. Năm 1986, quy mô GDP của nền kinh tế chỉ đạt 8 tỷ USD, đến năm 2024 ước đạt 476,3 tỷ USD, gấp 59,5 lần.
Hiện nay, Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị thế giới và khu vực bất ổn, diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường. Do vậy, với quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng, độ mở lớn, mọi biến động về kinh tế, chính trị thế giới đều tác động tới quá trình phát triển của nước ta.
Để thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đòi hỏi đất nước phải khẩn trương đổi mới, cải cách toàn diện, đồng bộ trên 5 lĩnh vực: thể chế kinh tế; xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược; cải cách triệt để hệ thống giáo dục; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; kiến tạo, phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc trở thành lực lượng quan trọng nhất, đội quân tiên phong trong phát triển kinh tế.

Thể chế là nền tảng, đóng vai trò vô cùng quan trọng, định hình nên sự thịnh vượng của quốc gia. Ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về "Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới". Mục tiêu của Nghị quyết nhằm tạo dựng một xã hội thực sự dân chủ, bình đẳng, an toàn, minh bạch; nhân dân thực sự làm chủ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước; quản lý, quản trị xã hội hiện đại, kiến tạo sự phát triển; nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc.
Nghị quyết đặt ra mục tiêu, đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết số 66-NQ/TW là một bước đi chiến lược khẳng định vai trò trung tâm của pháp luật là công cụ kiến tạo phát triển; phản ánh sự đổi mới tư duy và quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong xây dựng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, kiến tạo, quản trị, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, với sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân và doanh nghiệp.
Nghị quyết này phản ánh quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước xây dựng nền thể chế bao trùm, xóa bỏ tình trạng thể chế là điểm nghẽn đối với quá trình phát triển. Khẩn trương xóa bỏ tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật gây nhiều khó khăn cho việc triển khai thực hiện, gây lãng phí, gia tăng chi phí và rủi ro đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, bỏ lỡ cơ hội đầu tư thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững.
Để bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển, Đảng và Nhà nước cần tạo dựng và thực thi cơ chế bền vững trong cải cách thể chế đáp ứng 3 tiêu chuẩn: đảm bảo chất lượng, sự phù hợp với thực tiễn của các quy định hiện hành; nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong thực thi pháp luật; kiểm soát chất lượng của những quy định mới, không tạo ra xung đột chính sách và cản trở sự phát triển.
Khi thể chế phù hợp với thực tiễn đồng nghĩa với điểm nghẽn về thể chế biến mất. Khi thực thi pháp luật minh bạch, hiệu quả đồng nghĩa với sự nhũng nhiễu, cơ chế xin - cho, tham nhũng, lãng phí không còn đất sống. Khi kiểm soát tốt chất lượng của những quy định mới, không tạo ra xung đột chính sách và cản trở sự phát triển đồng nghĩa với không phát sinh điểm nghẽn mới, thể chế thực sự tạo động lực phát triển. Cải cách thể chế đáp ứng 3 tiêu chuẩn này, khi đó thể chế là nền tảng và động lực quan trọng cho một quốc gia thịnh vượng.

Xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược là điều kiện cần, mang tính then chốt, là nền tảng quan trọng để đất nước phát triển nhanh, bền vững và hội nhập sâu rộng.
Đảng và Nhà nước đã có bước đột phá trong xây dựng nhà nước kiến tạo, quản trị, đó là chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang quản trị, kiến tạo và phục vụ; chuyển từ bộ máy địa phương cồng kềnh nhiều tầng nấc sang bộ máy địa phương tinh gọn, gần dân, sát dân, phục vụ dân.
Xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ loại trừ được tư duy nhiệm kỳ; xóa bỏ được lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí; sẽ tạo dựng được niềm tin, sự đồng thuận và ủng hộ của toàn xã hội.
Cùng với hoàn thiện thể chế, pháp luật theo hướng minh bạch và trách nhiệm giải trình, Đảng và Nhà nước đang tập trung, khẩn trương tái cấu trúc bộ máy hành chính, xóa bỏ cấp trung gian, sáp nhập các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tương đồng; rà soát, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương, loại bỏ chức năng không cần thiết, không còn phù hợp; tái cấu trúc đội ngũ công chức theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp có năng lực đưa ra quyết định độc lập, dám chịu trách nhiệm với quyết định của mình.
Để xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Nhà nước cần tạo dựng môi trường khơi dậy, cổ vũ nỗ lực, đánh thức và ủng hộ ý thức trách nhiệm về đạo đức công vụ, luân lý, liêm chính, có tinh thần phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng tinh thông, tinh gọn, chuyên nghiệp, năng động, có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi trong nước và quốc tế.
Bộ máy nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược cần vận hành theo 5 nguyên tắc: tăng cường phương pháp quản lý thực tiễn; nâng cao hiệu suất và kiểm soát kết quả công việc; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xóa bỏ tập trung quyền lực, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong bộ máy nhà nước, không giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhằm đạt hiệu quả công việc cao nhất; thúc đẩy áp dụng mô hình quản lý công - tư, linh hoạt áp dụng phương pháp quản lý hiệu quả của khu vực tư nhân vào quản lý khu vực công; tiết kiệm tối đa chi thường xuyên, giảm chi phí hoạt động công vụ và quản lý công. Đồng thời, cần xây dựng một xã hội cởi mở, chào đón sự thay đổi, chuẩn bị cho những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới.
Để đáp ứng và theo kịp tiến trình phát triển rất nhanh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tránh tụt hậu so với khu vực và thế giới, Nhà nước kiến tạo phải nắm bắt thời cơ, kiến tạo động lực mới cho phát triển.
Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, Chính phủ cần tăng cường ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, xây dựng và vận hành Mô hình Chính phủ trí tuệ nhân tạo 24/7, không chỉ hoạt động trong giờ hành chính, mà có thể hoạt động thông minh hơn, chất lượng hơn, mọi lúc, mọi nơi, thúc đẩy xã hội chuyển động nhanh hơn, nắm bắt cơ hội tốt hơn.
Xây dựng và vận hành thành công Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược là một cống hiến quan trọng của Đảng và Nhà nước đối với quá trình phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Giáo dục và đào tạo là nền tảng căn bản, quan trọng nhất của đất nước, cũng là phương thức phòng thủ quốc gia tốt nhất. Một quốc gia không làm tốt giáo dục và đào tạo, quốc gia đó sẽ thất bại.
Đảng và Nhà nước luôn xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong các văn kiện của Đảng, giáo dục và đào tạo luôn được xác định là động lực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thể hiện sự quan tâm sâu sắc và toàn diện của Đảng đối với giáo dục và đào tạo. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp, chương trình hành động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, tạo điều kiện học tập công bằng cho mọi công dân.
Trong những thập kỷ qua, giáo dục và đào tạo nước ta đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đáng ghi nhận, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều bất cập. Hiện nay, ở nước ta bục giảng thì nhiều nhưng thầy giỏi và cao quý thì hiếm. Giảng đường thì nhiều và rộng, nhưng số người trẻ tuổi thành thật khát khao chân lý và lẽ công bằng thì ít. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ, giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc.
Phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả thiếu thực chất. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; đạo đức xã hội đáng báo động.
Thực trạng này của hệ thống giáo dục và đào tạo nước ta diễn ra trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển như vũ bão, đòi hỏi hệ thống giáo dục và đào tạo phải khẩn trương cải cách toàn diện, sâu sắc theo quan điểm “Giáo dục tri thức nguyên bản”. Thực hiện quan điểm giáo dục này không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo mà còn là nền móng không thể thiếu để Việt Nam bứt phá về khoa học, công nghệ, độc lập, tự chủ trong phát triển, vươn tầm thế giới. Cần xây dựng nền giáo dục dạy cách sáng tạo ra tri thức, chứ không chỉ học lại tri thức sẵn có.
Giáo dục tri thức nguyên bản giúp người học tiếp cận, hiểu và vận dụng trực tiếp những tri thức gốc, nguyên bản, chưa qua sự đơn giản hóa hay làm sai lệch của đội ngũ truyền đạt trung gian. Mục tiêu của giáo dục tri thức nguyên bản nhằm khơi dậy tư duy phản biện độc lập; tiếp xúc thực sự với chiều sâu tri thức; phát triển năng lực tự học, tự khám phá; tôn trọng bản chất sự vật.

Cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo được nhìn nhận là thành công, có giá trị đích thực khi nền giáo dục nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung đạt được những thành quả sau:
Một là, lớp trẻ có ý thức sống động và nhận thức được điều gì là đẹp, điều gì là thiện. Hệ thống giáo dục dạy cho con người một chuyên ngành thì chưa đủ. Bởi bằng cách đó, người học có thể trở thành một người máy chuyên dụng nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Điều quan trọng cần phải rèn dạy cho người học có được cảm nhận sống động về điều gì đáng để phấn đấu trong cuộc đời, điều gì là đẹp, điều gì là thiện. Nếu chỉ được dạy những kiến thức chuyên môn, học viên sau này chỉ là một người được huấn luyện tốt một việc, không thể trở thành một người phát triển hài hòa.
Phần Lan được xem là một quốc gia có mô hình giáo dục thành công và tiến bộ nhất thế giới, được thế giới đánh giá cao nhờ tính nhân văn, công bằng và hướng đến sự phát triển toàn diện của con người. Giáo dục ở Phần Lan không chạy theo điểm số, thứ hạng hay thành tích quốc tế, mà giúp đào tạo con người phát triển tốt nhất theo năng lực của mình, trở thành công dân có trách nhiệm và sáng tạo.
Hai là, hệ thống giáo dục các cấp được coi trọng ngang nhau, kết hợp hài hòa giữa giáo dục nhân văn và kiến thức chuyên ngành. Hệ thống giáo dục cần đào tạo nên con người hiểu được những động cơ tốt đẹp thôi thúc, nhận thức được những ảo tưởng và nỗi thống khổ của nhân loại để có một thái độ ứng xử đúng đắn giữa người với người, với toàn xã hội.
Những điều trân quý này được truyền cho thế hệ trẻ nhờ quan hệ trực tiếp với người thầy, chứ không phải chủ yếu qua sách vở. Người thầy là nền tảng đầu tiên và căn bản tạo dựng văn hóa và bảo tồn văn hóa. Vì vậy, hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp phải coi trọng giáo dục nhân văn và kiến thức chuyên ngành, chuyên sâu có tầm quan trọng ngang nhau.
Ba là, hệ thống giáo dục chú trọng tới đào tạo và phát triển lối tư duy phê phán độc lập. Chỉ cá thể đơn lẻ mới có thể tư duy và qua đó tạo ra những giá trị mới cho xã hội. Nếu không có những cá thể sáng tạo, suy nghĩ và phán xét độc lập, thì sự phát triển của xã hội lên một tầng cao mới là không thể. Cùng với đó, một cá thể đơn lẻ sẽ không thể phát triển nếu thiếu “mảnh đất dinh dưỡng” của cộng đồng. Một cộng đồng lành mạnh là cộng đồng gắn liền với tính độc lập của những cá thể cũng như với sự liên kết bên trong của xã hội.
Để hệ thống giáo dục và đào tạo phát triển lối tư duy phê phán độc lập, Đảng và Nhà nước cần khích lệ, trân trọng và phát huy cơ chế phản biện, lắng nghe, tiếp thu những tham vấn, đề xuất, sáng kiến có tri thức, có giá trị của xã hội. Chỉ đạo hệ thống giáo dục và đào tạo đổi mới phương pháp giảng dạy từ dạy học một chiều sang phương pháp tương tác, thảo luận, phản biện; thay đổi vai trò của giáo viên từ truyền đạt kiến thức sang dẫn dắt và kích thích tư duy, tạo không gian để học viên tranh luận.
Đồng thời, cải tiến chương trình và nội dung học tập theo hướng giảm lý thuyết, gia tăng hoạt động phân tích, phản biện, nghiên cứu tình huống thực tiễn nóng hổi của cuộc sống. Đặc biệt cần xây dựng môi trường giáo dục dân chủ, cởi mở, kết nối với thực tiễn và thế giới.
Bốn là, hệ thống giáo dục cần đào tạo nên con người có tri thức nguyên bản. Theo đó hệ thống giáo dục dạy người học tự suy nghĩ, tự khám phá và tự tạo ra tri thức. Tri thức thực sự chỉ hình thành thông qua quá trình chiêm nghiệm, trải nghiệm, hấp thụ, tự phản biện, tự luận.
Con người cần tri thức nguyên bản, tri thức tự thân, bởi vì đây là loại tri thức bền vững được đúc kết, hình thành và hòa quyện giữa kiến thức sách vở với trải nghiệm thực tiễn của cuộc sống. Một người có tri thức tự thân sẽ kiến tạo thế giới theo cách của họ và để lại di sản tốt đẹp cho xã hội. Di sản của mỗi người không phải là thứ gì to tát, mà là bất kỳ điều gì tốt đẹp người đó để lại thế giới này. Albert Einstein đã nói: “Thế giới chỉ cần tốt lên một chút khi con người rời đi, so với khi người ấy bước vào là đã để lại di sản”.
Hệ thống giáo dục đào tạo con người có tri thức nguyên bản cần khuyến khích tư duy phản biện, độc lập. Cùng với thuộc bài, học viên được khích lệ nêu câu hỏi, phản biện; giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn gợi mở tư duy cho học viên. Hệ thống giáo dục này cần tạo không gian cho sáng tạo và thử nghiệm. Học viên được quyền sai, quyền sửa sai, thử nghiệm và đổi mới. Vì vậy giáo dục cần xóa bỏ nỗi sợ sai để người học dám nghĩ khác, làm khác. Mô hình chấm điểm đúng - sai tuyệt đối cần được thay bằng đánh giá quá trình, tư duy và năng lực.
Cùng với đó, phương pháp dạy học không chỉ dạy nội dung, mà phải dạy phương pháp, công cụ tìm kiếm câu trả lời. Cần kết hợp hài hòa những tri thức học qua sách vở với trải nghiệm thực tiễn để kiến thức trở thành của chính học viên. Đặc biệt, hệ thống giáo dục tri thức nguyên bản dạy học viên kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, tự khám phá vấn đề; dạy phương pháp tư duy khoa học, tư duy hệ thống, kỹ năng tra cứu thông tin.

Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới bất cập, khó lường, chuyển biến nhanh, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng là xu thế tất yếu, điều kiện sống còn, là giải pháp và bước ngoặt chiến lược để kinh tế nước ta nâng cao tính độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập, phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững trong kỷ nguyên mới.
Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ nâng cao chất lượng tăng trưởng; tạo động lực tăng trưởng mới từ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng nền tảng đảm bảo tăng trưởng bền vững theo xu hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân khởi nghiệp, phát triển thành đội quân tiên phong trên lĩnh vực kinh tế; nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia; nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của toàn dân.
Cùng với cải cách thể chế và xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Nhà nước cần khẩn trương tái cơ cấu lại nền kinh tế, phù hợp với xu hướng phát triển các ngành, lĩnh vực của kinh tế thế giới trong bối cảnh ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, công nghệ số; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ.
Chúng ta cần xác định trong những thập kỷ tới kinh tế Việt Nam sẽ hướng tới, tập trung đầu tư phát triển những ngành, lĩnh vực nào, với công nghệ gì để phù hợp, hòa cùng dòng chảy và không bị tụt hậu với thế giới. Cùng với đó, cần xác định phương thức sản xuất, ứng dụng công nghệ gì cho các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng là cơ sở quan trọng để đầu tư đúng và trúng, sử dụng hiệu quả, chống thất thoát lãng phí, tiết kiệm nguồn nhân lực, vật lực và tài lực của đất nước.
Đảng chính thức đưa ra chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng tại Đại hội XI, tiếp tục nhấn mạnh, cụ thể hóa, nâng tầm qua các kỳ Đại hội XII và XIII. Tuy nhiên, tiến độ cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm, chất lượng và chiều sâu còn hạn chế, đòi hỏi tiếp tục đổi mới tư duy, cải cách thể chế, ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ một cách mạnh mẽ trong thời gian tới.
Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng gồm cả cơ cấu lại nội ngành để tạo dựng phương thức sản xuất phù hợp, tối ưu. Từ đó, cơ cấu lại tỷ trọng đầu tư công và định hướng cho các khu vực kinh tế thực hiện đầu tư vào các ngành, lĩnh vực đã cơ cấu lại nhằm sử dụng hiệu quả vốn, lao động, khoa học, công nghệ trong sản xuất.

Trong bối cảnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân với quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng; nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia; tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng. Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết đã tháo gỡ tất cả những bất cập bấy lâu nay của kinh tế tư nhân.
Ngay khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW, Quốc hội đã khẩn trương thể chế hóa Nghị quyết bằng việc thông qua các cơ chế, chính sách đặc biệt nhằm phát triển kinh tế tư nhân. Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo quốc gia triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW và ban hành Nghị quyết của Chính phủ triển khai Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.
Để Nghị quyết số 68-NQ/TW đi vào cuộc sống, Quốc hội đồng hành với Chính phủ cần khẩn trương ban hành và thực thi các chính sách cởi mở, minh bạch, công bằng để kinh tế tư nhân và doanh nghiệp dân tộc hình thành, phát triển bền vững, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu; cụ thể, cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:
Một là, Chính phủ cần chủ động, khẩn trương trong cải cách thể chế, rà soát sửa đổi, hoàn thiện và minh bạch môi trường pháp lý để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được đối xử công bằng trước pháp luật, tạo niềm tin, động lực và sự năng động của kinh tế tư nhân.
Thực thi pháp luật một cách công khai, minh bạch, nghiêm minh, xóa bỏ cơ chế “xin - cho” và tình trạnh “kinh tế thân hữu”; xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân.
Cùng với đó, Chính phủ tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; nâng cao trách nhiệm và hiệu lực thực thi của bộ máy công quyền liên quan tới doanh nghiệp; thực hiện đối thoại định kỳ với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn.

Hai là, thực thi các chính sách tài khóa và tiền tệ ưu đãi, bổ sung và hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; có cơ chế hỗ trợ, bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; phát triển thị trường chứng khoán, trái phiếu giúp doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn.
Trong bối cảnh đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, thực hiện vai trò nhà nước kiến tạo, Chính phủ cần tìm kiếm, hướng dẫn, hỗ trợ kinh tế tư nhân mở rộng không gian phát triển; tham gia vào những ngành, lĩnh vực mới của kinh tế thế giới để kinh tế Việt Nam nhanh chóng hòa vào dòng chảy của kinh tế toàn cầu, không chậm chân và bị bỏ lại phía sau.
Ba là, xây dựng và thực thi chính sách về đất đai để cung cấp mặt bằng hợp lý cho sản xuất kinh doanh với thủ tục cấp đất đơn giản, không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp. Cùng với đó, Chính phủ đầu tư xây dựng hạ tầng số, khu công nghiệp công nghệ cao, logistics để giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh.
Bốn là, hỗ trợ doanh nghiệp về công nghệ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ năng, tay nghề cao, phù hợp để kinh tế tư nhân có thể tiến hành sản xuất kinh doanh trong những ngành và lĩnh vực mới trong quá trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng.
Năm là, xây dựng, thực hiện Chiến lược quốc gia phát triển doanh nghiệp dân tộc có tính đột phá, linh hoạt về thể chế, chính sách, nguồn vốn. Chiến lược quốc gia cần gắn doanh nghiệp dân tộc với thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội trong các Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và 10 năm; gắn doanh nghiệp dân tộc với Chiến lược tiếp cận công nghệ mới một cách hiệu quả theo từng giai đoạn; đồng thời, xây dựng hệ thống thực thể kinh tế vệ tinh của doanh nghiệp dân tộc.
Các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước là điều kiện cần. Điều kiện đủ để kinh tế tư nhân trở thành đội quân tiên phong trên lĩnh vực kinh tế đó là cộng đồng doanh nhân phải dấn thân, dám đương đầu với khó khăn, dám chịu thất bại và đứng lên từ thất bại, chủ động, linh hoạt trong mọi tình huống.
Đảng và Nhà nước đổi mới tư duy không chỉ bằng chính sách mà bằng tình yêu, vì trách nhiệm với nhân dân, với đất nước. Thực hiện cải cách, đổi mới toàn diện, đồng bộ về thể chế kinh tế; xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược; cải cách triệt để hệ thống giáo dục; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; kiến tạo, phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc là điều kiện cần và đủ, tạo điểm tựa và đòn bẩy cho một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

VnEconomy 21/07/2025 15:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 29-2025 phát hành ngày 21/07/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-29.html
