Bức tranh mới nhất về chuyển đổi số của Việt Nam được “phác họa” chi tiết tại Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024 (tổ chức ngày 13/10/2024) - năm thứ 3 liên tiếp sự kiện này được tổ chức, mà theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, điều này thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước chung tay chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Theo đó, chuyển đổi số quốc gia, kinh tế số đạt được nhiều kết quả tích cực, có tác động, ảnh hưởng sâu rộng đến mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam có bước tiến mạnh mẽ trong xếp hạng về chuyển đổi số quốc tế, cụ thể chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 tăng 15 bậc, xếp hạng 71/193; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 tăng 02 bậc, xếp hạng 44/133; chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu năm 2024 tăng 8 bậc, xếp hạng 17/194.
Công nghiệp công nghệ thông tin có bước phát triển, tác động lan tỏa tích cực đến nhiều ngành, lĩnh vực, có 51.000 doanh nghiệp công nghệ số và tạo 1,5 triệu việc làm. Doanh thu công nghiệp công nghệ số trong 9 tháng năm 2024 ước đạt 118 tỷ USD, tăng 17,8%; doanh thu từ hoạt động phần mềm và dịch vụ số là 6,64 tỷ USD, tăng 9,9%.
Bên cạnh đó, số hóa các ngành kinh tế đạt nhiều kết quả tích cực. Nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, đầu tư, xây dựng, sản xuất và ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, Internet vạn vật…
Thương mại điện tử tiếp tục có bước phát triển nhanh, thuộc nhóm 10 nước có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới (doanh thu năm 2023 đạt 20,5 tỷ USD, tăng 23%; dự kiến năm 2024 đạt 27,7-28 tỷ USD, tăng 36%-cao nhất 10 năm qua).
Thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai rộng khắp cả nước, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản đạt 87%; tăng trưởng thanh toán không dùng tiền mặt hàng năm đạt 50%; có 9,13 triệu khách hàng sử dụng Mobile Money.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, đến nay chủ trương, chính sách về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số tại các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều chuyển biến về nhận thức, hành động. Cụ thể, 5/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành Nghị quyết của Ban cán sự Đảng về chuyển đổi số; 100% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025; 100% bộ, cơ quan ngang bộ ban hành chương trình, kế hoạch về phát triển Chính phủ số, chính quyền số giai đoạn 2021 - 2025.
100% tỉnh, thành phố ban hành Nghị quyết của cấp ủy về chuyển đổi số; chương trình, kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025; chương trình, kế hoạch riêng về phát triển Chính phủ số, chính quyền số giai đoạn 2021 - 2025. 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành kế hoạch thực hiện chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, chính quyền số hàng năm. 100% bộ, ngành địa phương đã ban hành, cập nhật kiến trúc Chính phủ điện tử 2.0; 100% địa phương đã ban hành nghị quyết về chuyển đổi số, kiện toàn, thành lập ban chỉ đạo về chuyển đổi số; 100% bộ, ngành, địa phương đã ban hành kế hoạch/đề án về chuyển đổi số.
Cả nước (63/63 tỉnh, thành phố) đã thành lập các tổ Công nghệ số cộng đồng đến từng thôn, tổ dân phố, khu dân cư, khóm, ấp dân cư với 93.524 tổ và gần 457.820 thành viên, 63/63 tỉnh, thành phố hoàn thành 100% đến cấp xã. Mỗi tổ có khoảng 4 - 9 thành viên, trong đó tổ trưởng các tổ dân phố, công an khu vực, ban chấp hành đoàn thanh niên (các chi đoàn, đoàn cơ sở) và doanh nghiệp công nghệ số là lực lượng nòng cốt.
Để có được những con số cụ thể trên, đặc biệt trong giai đoạn 2021-2024, chuyển đổi số được đẩy mạnh theo hướng toàn dân, toàn diện, bao trùm, xuyên suốt, có kết quả thiết thực, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chia sẻ tại Hội nghị Thường trực Chính phủ về chuyển đổi số với các Bộ trưởng, trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức vào tháng 7/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng chuyển đổi số đã trở thành phong trào, xu thế, là yêu cầu khách quan và lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu. Công tác chỉ đạo, điều hành đã có kinh nghiệm hơn, lớp lang, bài bản, bám sát thực tiễn hơn, có kết quả tốt hơn. Chuyển đổi số đã đến “từng ngõ, từng nhà, từng người”.
Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, ấn tượng, song công cuộc chuyển đổi số vẫn còn những tồn tại, khó khăn, hạn chế. Trong đó, “điểm nhấn” là việc nhiều lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương chưa coi chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số - vấn đề được nêu ra ở hầu hết các hội nghị về chuyển đổi số.
Ngoài ra, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung thể chế, cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số còn chậm, chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Kinh tế số, hạ tầng số phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng…
Trong bài viết quan trọng về “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chỉ rõ: “Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả”.
Không phải ngẫu nhiên mà một trong những bài viết đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong nhiệm kỳ này là về chuyển đổi số. Việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả mà Đảng và Nhà nước đang tập trung, quyết liệt triển khai theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” có mối quan hệ biện chứng với chuyển đổi số. Lực lượng sản xuất hiện đại trên nền tảng số phát triển mạnh mẽ thì tất yếu kéo theo sự phát triển tương ứng của quan hệ sản xuất.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đặt ra yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Cách mạng số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.
“Quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới. Muốn vậy, người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp và người dân phải nhận thức đầy đủ, thống nhất, có trách nhiệm và quyết tâm thực hiện quá trình chuyển đổi số”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh trong bài viết “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới”.
Để thực hiện được cuộc cách mạng này, một trong những nhiệm vụ được đặt ra là hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật. Theo đó, tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, thực hiện cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về Chính phủ điện tử, kinh tế số. Bên cạnh đó là đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong Kỷ nguyên mới. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới…
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng với phát biểu về chuyển đổi số của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm vào đúng ngày lập nước 2/9/2024, thì chuyển đổi số Việt Nam đã thực sự trở thành sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng và toàn dân ta. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chỉ khi chuyển đổi số trở thành sự nghiệp, thành công việc hàng ngày của toàn Đảng, toàn dân thì giá trị của chuyển đổi số mang lại cho đất nước mới thực sự là to lớn. Chỉ khi đó, chuyển đổi số mới là động lực chính cho phát triển.
Quán triệt bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm về “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới”, tại Hội nghị giao ban quản lý nhà nước Bộ Thông tin và Truyền thông quý 3/2024, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết khoa học, công nghệ, đặc biệt là các công nghệ 4.0 đã tạo ra sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất nhưng quan hệ sản xuất chưa theo kịp.
Lấy ví dụ từ chính đơn vị Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết một số doanh nghiệp thông tin và truyền thông đã chững lại là vì một số quy định nội bộ hay chính là quan hệ sản xuất trong nội tại, “mỗi khi khó khăn thì các doanh nghiệp hãy nhìn lại các quy chế, quy định nội bộ xem có kìm hãm sự phát triển”.
Theo Bộ trưởng Hùng, công nghệ số, chuyển đổi số tạo ra lực lượng sản xuất mới, tài nguyên mới, lao động mới (AI). Chuyển đổi số tạo ra một môi trường mới, một không gian mới là không gian mạng với các quan hệ mới, của cải mới, cách thức quản lý mới và kéo theo các hình thức sở hữu và phân phối mới.
Bộ trưởng cho rằng chuyển đổi số là cuộc cách mạng về thay đổi (quan hệ sản xuất) hơn là cách mạng về công nghệ (lực lượng sản xuất). Chuyển đổi số là cuộc cách mạng vì tạo ra sự thay đổi toàn diện và sâu rộng trong mọi lĩnh vực; thay đổi căn bản, có tính bản chất, công việc và cách thức và hoạt động; thay đổi cách thức quản lý và vận hành của Chính phủ; tạo ra không gian phát triển mới, tạo ra tài nguyên mới; tăng cường kết nối và toàn cầu hoá; thay đổi cách thức tiêu dùng và hành vi người dùng; tác động sâu sắc đến xã hội và văn hoá.
“Cuộc cách mạng chuyển đổi số không phải là cuộc cách mạng về công nghệ mà là vấn đề thay đổi về tư duy. Tư duy là điều Việt Nam có thể làm được. Chuyển đổi số cũng giải được các bài toán lớn về năng suất lao động, cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, chống tham nhũng”, Bộ trưởng nhấn mạnh. Đồng thời, Bộ trưởng yêu cầu lãnh đạo các đơn vị cần nghiên cứu kỹ bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm để thấm nhuần sâu sắc các tư tưởng mới của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, từ đó dẫn dắt các đơn vị.
Bám sát quan điểm chỉ đạo và định hướng về chuyển đổi số của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, chuyển đổi số quốc gia tầm nhìn đến năm 2030, hướng tới Việt Nam trở thành quốc gia số, phát triển thịnh vượng, tiên phong ứng dụng các công nghệ mới và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện phương thức quản lý, điều hành; chuyển đổi phương thức sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; lối sống, làm việc và học tập của người dân; phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, bao trùm, rộng khắp, “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Chính phủ xác định “mục tiêu kép” về chuyển đổi số là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số ở trình độ cao; vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam mạnh, có năng lực cạnh tranh toàn cầu. Để chuyển đổi số thành công trong giai đoạn tới, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng cần phải có những chiến lược trọng tâm, phù hợp để triển khai một cách thần tốc, hiệu quả, có tính bứt phá toàn diện hơn. Trong đó, Chính phủ nêu rõ quan điểm phát triển kinh tế số là: nâng cấp nền kinh tế số với những đột phá và cải cách mạnh mẽ, toàn diện, bao trùm hơn nữa để Việt Nam bắt kịp, tiến cùng và vươn lên trên các lĩnh vực.
Cụ thể, chuyển đổi số cần hành động mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, tăng tốc, bứt phá hơn, bảo đảm thực chất và hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế số, chuyển đổi xanh, giảm phát thải gắn với phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó, phải đẩy mạnh ba đột phá chiến lược số: (1) Đột phá về thể chế số; (2) Đột phá về hạ tầng số; (3) Đột phá về nguồn nhân lực số; với phương châm “thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, nhân lực thông minh”. Triển khai đồng bộ các giải pháp để tăng tốc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển lực lượng sản xuất mới, chất lượng cao, chuyên nghiệp.
Đối với đột phá thể chế số, nhiệm vụ được đặt ra là hoàn thiện hành lang pháp lý số cho mọi vấn đề liên quan đến kinh tế, giao dịch dân sự, sản xuất, kinh doanh… gắn với cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ; miễn giảm thuế, phí, lệ phí; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát với tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù trong chuyển đổi số; các chính sách hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, gia đình…
Với đột phá hạ tầng số, yêu cầu sớm đưa 5G vào thương mại tại một số thành phố lớn. Đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp hạ tầng trục viễn thông quốc gia và đa dạng hóa địa bàn, phương thức kết nối, mở rộng kết nối cáp quang biển quốc tế, phát triển vệ tinh. Nâng cấp và đẩy mạnh cung cấp dịch vụ viễn thông bằng vệ tinh.
Tại Việt Nam, mạng di động 5G của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã chính thức được thương mại hóa tại thủ phủ 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Dự kiến những tháng đầu năm 2025, doanh nghiệp viễn thông còn lại là MobiFone cũng sẽ chính thức cung cấp dịch vụ 5G ra thị trường.
Cùng với đó, nâng cấp và phát triển hạ tầng Internet vạn vật (IoT) để tăng cường khả năng kết nối, thu thập, chia sẻ dữ liệu tự động, thông minh, phục vụ cho phát triển các ngành, lĩnh vực, đô thị thông minh. Tạo lập quỹ đất sạch để hình thành và xây dựng các trung tâm công nghiệp kỹ thuật số quy mô lớn cho các ngành mới nổi để thu hút các dự án công nghệ cao, bán dẫn, vi mạch… Thu hút nguồn lực đầu tư, nhất là đầu tư FDI để xây dựng các trung tâm dữ liệu cho các ngành, lĩnh vực, vùng và khu vực. Khẩn trương xây dựng và đưa Trung tâm dữ liệu quốc gia số 1 đi vào hoạt động vào cuối năm 2025.
Phát triển các trung tâm ứng phó sự cố, an ninh mạng, an toàn thông tin. Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành để quản lý, điều hành trên cơ sở dữ liệu; tăng cường kết nối, tích hợp, chia sẽ dữ liệu để cung cấp, nâng cao chất lượng dịch vụ công, tiện ích cho người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án 06, hình thành hệ sinh thái công dân số.
Đối với vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số, nhiệm vụ đặt ra là cần huy động cả nguồn lực Nhà nước và của xã hội, của người dân và doanh nghiệp, triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp, cần có ưu tiên để phát triển nguồn nhân lực số. Bên cạnh đó, triển khai có hiệu quả đề án “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, đồng thời chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D); tăng cường hợp tác, giao lưu, học hỏi quốc tế trong chuyển đổi số.
“Cùng những nỗ lực, quyết tâm và sự chủ động, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân thời gian qua, công cuộc chuyển đổi số quốc gia sẽ chuyển biến nhanh, bền vững và toàn diện, bao trùm, thực chất, hiệu quả, góp phần quan trọng cho thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng trong Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của đất nước”, người đứng đầu Chính phủ tin tưởng.
VnEconomy 30/01/2025 07:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 4+5-2025 phát hành ngày 27/1/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1194