“Đồ gỗ Việt Nam đang xuất khẩu đến hơn 160 thị trường trên thế giới, trong đó Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Trung Quốc là top 5 thị trường chiếm đến hơn 90% sản lượng xuất khẩu.
Thuế suất xuất khẩu đồ gỗ nước ta vào Hoa Kỳ khoảng 20%, thấp hơn so với một số quốc gia cạnh tranh như Trung Quốc, Mexico, Canada. Do đó, đây không phải là vấn đề đáng lo ngại, nhưng quan ngại lớn nhất, chắc chắn là cầu thị trường Hoa Kỳ sẽ giảm, do giá bán có thể tăng.
Hiện nay, sản lượng đồ gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ khoảng 55%, tương đương 9 tỷ USD, con số này chiếm từ 38-40% tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ nội thất của Hoa Kỳ. Chúng ta hình dung, cứ 10 người phụ nữ Hoa Kỳ chiều đi làm về đứng bên bếp nấu ăn, thì có gần 4 người đứng cạnh tủ bếp, bộ bàn ăn được sản xuất từ Việt Nam. Những sản phẩm này chủ yếu tập trung vào nhóm trung lưu. Còn các nước khác như Ý, Đức… họ cũng xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ nhưng chủ yếu ở nhóm cao cấp hơn nhiều. Với tỷ lệ áp đảo như vậy, những “cơn nóng lạnh” của thị trường Hoa Kỳ sẽ tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam.
Tôi cho rằng đây là thời điểm để chúng ta nhìn nhận lại, làm mới thị trường cũ, đặc biệt thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay, một số doanh nghiệp cũng đã tính tới câu chuyện liên kết với chính các doanh nghiệp của Hoa Kỳ để sản xuất trên đất Hoa Kỳ, dùng nguyên liệu Hoa Kỳ, với công nhân Việt Nam, thiết bị công nghệ Việt Nam để tiêu thụ. Đó là điều mà Tổng thống Donald Trump muốn và chúng ta có thể làm được.
Tuy nhiên, để làm được việc này, một doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện mà cần liên kết doanh nghiệp thành một nhóm đủ mạnh. Chúng tôi đã có một nhóm doanh nghiệp đang đặt vấn đề nghiêm túc để triển khai chủ trương này. Năm nay, các doanh nghiệp gỗ đã tăng gấp đôi nhập khẩu gỗ từ Hoa Kỳ lên 600 triệu USD. Điều này để chứng minh, chúng ta cam kết giảm xuất siêu một cách rất nghiêm túc. Hiện nay, phía Hoa Kỳ đánh giá rất cao thiện chí của Việt Nam trong việc giảm xuất siêu bằng cách tăng nhập khẩu, thu hút rất nhiều nguyên liệu gỗ của Hoa Kỳ.
Ngoài Hoa Kỳ, thị trường Nhật Bản hiện chỉ nhập khẩu dăm gỗ, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể gia tăng xuất khẩu vào thị trường này các sản phẩm gỗ nội thất mà người tiêu dùng Nhật Bản đang có nhu cầu”.
“Để tiếp cận thị trường mới, thương mại điện tử hiện nay là bước đi nhanh nhất, nhưng thương mại xuyên biên giới của Việt Nam chưa mạnh. Chắc chắn chúng ta phải có một đề xuất với Chính phủ là làm sao thúc đẩy thương mại xuyên biên giới.
Hiện nay, chúng ta mua hàng từ Trung Quốc hay từ các nước vào Việt Nam qua thương mại điện tử xuyên biên giới nhiều hơn chúng ta bán hàng cho họ qua kênh này. Dù chúng ta đã bắt đầu làm thương mại điện tử xuyên biên giới, nhưng còn rất khiêm tốn. Trong khi mua hàng từ Trung Quốc qua sàn thương mại điện tử của họ về Việt Nam chỉ mất 3 ngày. Đây là lợi thế cạnh tranh của họ.
Doanh nghiệp thương mại điện tử Trung Quốc mời các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam (tài trợ hoàn toàn phí đi lại, ăn, ở) sang để giới thiệu, quảng bá về thương mại điện tử xuyên biên giới, về vận chuyển của họ. Điều này chúng ta chưa làm được.
Tôi rất hy vọng Chính phủ Việt Nam khuyến khích làm sao có những sàn thương mại điện tử xuyên biên giới mang thương hiệu Việt Nam, tên Việt Nam, là doanh nghiệp Việt Nam làm. Nếu được như vậy sẽ hỗ trợ rất tốt cho các sản phẩm Việt Nam vươn ra thị trường thế giới.
Trong giao thương với Trung Quốc, chúng ta bán hàng không chính ngạch vẫn rất nhiều. Hiện nay hai bên đang thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch nhiều hơn. Tới đây, Việt Nam - Trung Quốc sẽ kết nối cứng bằng 3 tuyến đường sắt mới. Khi đó, bức tranh logistics của Việt Nam sẽ khác đi rất nhiều, chúng ta cần đón bắt cơ hội này, tận dụng được cơ hội này để đưa xuất khẩu hàng hóa nhiều hơn nữa.
Trung Quốc không chỉ mua hàng của Việt Nam để tiêu dùng trong nước, mà họ nhập hàng Việt Nam sau đó xuất khẩu tiếp. Đây cũng là một cơ hội của Việt Nam. Do đó, tôi cho rằng Việt Nam cần trở thành một hub, để thu được lợi ích, dịch vụ ở trong đó, chúng ta phải thay đổi tư duy về quản lý logistics. Logistics Việt Nam hiện nay còn hạn chế, những nút thắt về logistics chưa được cởi. Đây chính là thời cơ tốt nhất để chúng ta gỡ những nút thắt trong logistics cho Việt Nam”.
“Tôi đề xuất xây dựng “Hệ sinh thái thị trường mới” thông qua xây dựng “Bản đồ thị trường mới” cho từng ngành gồm cơ sở dữ liệu mở về nhu cầu, tiêu chuẩn, chính sách thuế, đối tác tiềm năng đặc biệt ở các thị trường ngách như Trung Đông, châu Phi, Nam Mỹ, Đông Âu ngoài các thị trường truyền thống.
Thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại số kết hợp thương mại điện tử xuyên biên giới và dữ liệu thị trường thay thế khi xuất khẩu sang thị trường truyền thống gặp rào cản. Tận dụng mạng lưới tham tán thương mại, hiệp hội ngành nghề, hội chợ quốc tế, hợp tác với nhà phân phối bản địa có hệ thống bán lẻ sẵn có để dẫn dắt doanh nghiệp theo.
Chuyển đổi xanh và tuần hoàn bằng việc quy hoạch và xây dựng cụm công nghiệp xanh tận dụng năng lượng tái tạo, tái chế nguyên liệu, giảm phát thải theo lộ trình Net Zero năm 2050. Chính sách hỗ trợ đặc biệt để phát triển Liên minh tiêu chuẩn xanh – ESG, giúp doanh nghiệp chia sẻ chi phí chứng nhận quốc tế, gia nhập Go Global.
Liên minh đổi mới sáng tạo công – tư, thành lập Quỹ Đổi mới sáng tạo vùng, ưu tiên công nghệ chế biến sâu, vật liệu mới, trí tuệ nhân tạo, blockchain truy xuất nguồn gốc. Xây dựng mạng lưới Doanh nhân Mentor hỗ trợ startup và doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận thị trường quốc tế. Đưa thương hiệu Việt ra thế giới, triển khai chương trình “Made in Vietnam – Global Quality” gắn chỉ dẫn địa lý, kể câu chuyện sản phẩm gắn văn hóa và giá trị bền vững. Mỗi sản phẩm xuất khẩu trở thành “đại sứ văn hóa” quảng bá hình ảnh quốc gia. Việt Nam điểm đến của các sản phẩm xanh, thông minh nâng cao giá trị, đất nước sản phẩm tinh hoa.
Đặc biệt, để doanh nghiệp mạnh dạn bước vào thị trường mới, cần thành lập Quỹ bảo hiểm rủi ro thương mại quốc tế theo mô hình công – tư. Nhật Bản có NEXI bảo hiểm cho doanh nghiệp khi đối tác phá sản, không thanh toán, hoặc gặp rủi ro chính trị ở hơn 100 thị trường. EU có Euler Hermes/Allianz Trade bảo hiểm xuất khẩu cho doanh nghiệp ở hơn 50 quốc gia, kết hợp dữ liệu rủi ro toàn cầu và hỗ trợ bồi thường 80–90% tổn thất.
Nhà nước hỗ trợ một phần phí cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khi mở thị trường mới. Đào tạo đội ngũ sale các công ty có chứng nhận cấp bậc 3-5 sao: Global Trade Professional – Chuyên gia thương mại toàn cầu. Tạo ra nghề chuyên gia đi sale toàn cầu theo từng khu vực xuất khẩu. Phải đẩy mạnh đào tạo nhân lực quốc tế hóa, am hiểu thương mại số, tiêu chuẩn xanh và văn hóa địa phương.
Để mở thị trường mới doanh nghiệp cần nhiều thứ, như sản phẩm chuẩn, thương hiệu mạnh, tiêu chuẩn quốc tế, câu chuyện truyền cảm hứng, dịch vụ hậu mãi vượt mong đợi. Nếu Chính phủ, hiệp hội và doanh nghiệp đồng hành, Việt Nam hoàn toàn có thể không chỉ bắt kịp mà còn dẫn dắt nhiều thị trường mới trên thế giới”.
“Doanh thu du lịch 7 tháng năm 2025 đạt 52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Đây là con số ấn tượng, phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của du lịch Việt Nam, trong đó chuyển đổi số đóng vai trò không nhỏ. Tuy vậy, vẫn tồn tại những “điểm nghẽn”, như chi phí đầu tư cao, đa số doanh nghiệp du lịch Việt Nam là nhỏ và vừa, hạn chế về vốn nên khó tiếp cận công nghệ tiên tiến; thiếu nhân lực số, cán bộ quản lý, nhân viên vận hành chưa được đào tạo bài bản; hệ thống dữ liệu phân mảnh do mỗi địa phương phát triển ứng dụng riêng, thiếu kết nối và chuẩn hóa; khung pháp lý chưa đầy đủ do thiếu quy định rõ ràng cho các dịch vụ số như chatbot, VR/AR, nền tảng OTA (đại lý du lịch trực tuyến) nội địa.
Khi chuyển đổi số diễn ra nhanh hơn, thực chất và đồng bộ hơn, ngành du lịch Việt Nam sẽ là đòn bẩy chiến lược để chinh phục các thị trường mới. Trong 5–10 năm tới, nếu tận dụng tốt cơ hội, Việt Nam hoàn toàn có thể nằm trong nhóm điểm đến hàng đầu khu vực (hiện tại đang top 4, có thể vươn lên thành top 2 hoặc 3 thậm chí trở thành đứng đầu khu vực Đông Nam Á). Do đó, cần các giải pháp chuyển đổi số để chinh phục thị trường mới.
Thứ nhất, cần hoàn thiện hạ tầng và nền tảng số dùng chung. Xây dựng nền tảng du lịch số quốc gia kết nối dữ liệu từ các cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp. Ứng dụng công nghệ 4.0 vào trải nghiệm khách hàng, như Chatbot AI đa ngôn ngữ hỗ trợ 24/7, VR/AR cho phép khách “trải nghiệm thử” di tích, bãi biển, lễ hội trước khi quyết định, thẻ du lịch thông minh tích hợp thanh toán không tiền mặt.
Thứ hai, đào tạo và phát triển nhân lực số, tổ chức chương trình đào tạo về kỹ năng số cho hướng dẫn viên, nhân viên khách sạn, điều hành tour…
Thứ ba, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi số ngành du lịch, cung cấp vốn ưu đãi, tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật.
Thứ tư, quảng bá số và hợp tác quốc tế, đẩy mạnh marketing đa nền tảng, tận dụng mạng xã hội và OTA. Hợp tác với các tổ chức quốc tế về du lịch để học hỏi, chia sẻ dữ liệu và tiếp nhận chuyển giao công nghệ”.
“Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam năm 2024 đạt 44 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2023. Kết quả của 2 quý đầu năm 2025 cũng rất tích cực, với nhiều dấu hiệu tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, quý 1/2025 đạt trên 8,6 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2024. Ước tính, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 6 tháng đầu năm 2025 có thể đạt trên 22 tỷ USD. Tuy nhiên, do vấn đề thuế quan và đặc thù mùa vụ, từ giữa quý 3 đến nay, số lượng đơn hàng đã bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm mạnh. Đặc biệt, đơn hàng quý 4 đang rất khan hiếm.
Do đó, cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Ngành may mặc Việt Nam đang quá phụ thuộc vào các thị trường chính như Hoa Kỳ và EU. Để giảm thiểu tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế tiềm năng hoặc thay đổi chính sách thương mại cũng như thuế quan, ngành công nghiệp dệt may nên khai phá các thị trường mới như Nga, Brazil, Trung Quốc, Đông Âu, Mỹ Latinh, châu Phi.
Hơn nữa, để cạnh tranh với các nước khác trên thị trường may mặc, Việt Nam cần tập trung vào việc phát triển sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có. Điều này có thể đạt được thông qua nghiên cứu và phát triển, đầu tư vào công nghệ và hợp tác chiều sâu nhằm bắt kịp và dự đoán được xu hướng của ngành thời trang quốc tế, từ đó đưa ra các sản phẩm mới phù hợp.
Để vượt qua các thách thức của ngành may mặc, Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh của ngành bằng cách tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất và cải thiện chất lượng. Điều này có thể đạt được thông qua đầu tư vào công nghệ, cải thiện kỹ năng lao động và triển khai các hệ thống quản lý hiện đại sử dụng các phần mềm quản lý điều hành sản xuất, sử dụng các robot thay cho con người ở các công đoạn đơn giản lặp đi lặp lại.
Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dệt may, Chính phủ Việt Nam đã nhận ra nhu cầu tinh giản thủ tục hành chính để giảm bớt sự phức tạp và tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành, bao gồm việc đơn giản hóa thủ tục cấp phép, giảm giấy tờ và tăng tính hiệu quả của hải quan.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là một phần quan trọng của ngành may mặc Việt Nam, nhưng thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng và công nghệ. Vì vậy, Chính phủ nên cung cấp hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các chính sách khuyến khích như miễn thuế, cho vay với lãi suất thấp, giãn đóng bảo hiểm xã hội”.
“Chúng tôi đang liên kết với khoảng hơn 3.000 hộ nông dân tại các tỉnh miền núi Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Bắc Kạn và đang sở hữu khoảng hơn 6.000 ha quế, hồi đạt tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ quốc tế và nhiều chứng nhận khác.
Hiện chỉ có hai nước trên thế giới có hồi là Việt Nam và Trung Quốc. 5 nước trên thế giới có quế là Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Madagascar và Sri Lanka. Trong đó có 4 nước có loại quế Cinnamomum Cassia giống nhau là Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia và Madagascar.
Trước đây, Việt Nam không có tên trên bản đồ xuất khẩu những sản phẩm này, mặc dù chúng ta có sản lượng rất lớn. Tuy nhiên, khoảng 3 năm gần đây, những sản phẩm quế hồi, gia vị, tinh dầu hữu cơ bắt đầu có thương hiệu. Sản phẩm quế, hồi Việt Nam có hàm lượng tinh dầu cao hơn, mùi vị, hương và tiêu chuẩn tốt hơn, khách hàng trên thế giới yêu thích hơn, nhưng vẫn chưa có một chỗ đứng ở trên thị trường.
Vì thế, chúng tôi đã thay đổi chiến lược kinh doanh, chuyển hướng từ các thị trường truyền thống như Trung Đông, Halal sang các thị trường cao cấp hơn, như châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Để làm được điều này, chúng tôi xây dựng mô hình kinh doanh chuỗi giá trị, hợp tác với người nông dân. Đây là quá trình đầy thử thách, đòi hỏi hơn một thập kỷ để thuyết phục và xây dựng lòng tin với bà con nông dân và chính quyền địa phương, giúp họ thay đổi tập quán canh tác cũ.
Dù đã đạt được những thành công, với lượng nông dân lên đến hơn 3.000 hộ và phát triển được khoảng 16 chứng nhận quốc tế, nhưng doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều khó khăn.
Thứ nhất, chi phí cho việc đánh giá chứng nhận quốc tế rất tốn kém do phải mời chuyên gia nước ngoài sang Việt Nam và thiếu các tổ chức chứng nhận có văn phòng đại diện tại chỗ.
Thứ hai, để vào được các thị trường cao cấp, ngoài việc chất lượng sản phẩm, phải đảm bảo tính minh bạch. Một trong những yếu tố minh bạch đó là truy xuất nguồn gốc. Việt Nam đã có một số phần mềm về truy xuất nguồn gốc, nhưng theo đánh giá của khách hàng quốc tế, phần mềm chưa đảm bảo được về mặt yêu cầu truy xuất nguồn gốc thực sự.
Thứ ba, các thủ tục hành chính để xin cấp phép đầu tư, thành lập chi nhánh và kho hàng ở nước ngoài còn phức tạp và tốn nhiều thời gian, làm chậm quá trình mở rộng thị trường.
Do đó, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề cụ thể như sau:
Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức chứng nhận quốc tế dễ dàng thành lập văn phòng tại Việt Nam, giúp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp.
Các cơ quan, ban, ngành cần hỗ trợ xây dựng nền tảng phần mềm truy xuất nguồn gốc đạt chuẩn quốc tế, có khả năng truy ngược lại thông tin chi tiết về hộ nông dân, sản lượng và quy trình chế biến của từng lô hàng.
Tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia thông qua các chương trình xúc tiến thương mại với những thông điệp như “Food of Vietnam” hay là “Made by Vietnam” hoặc là sản phẩm đặc sản vùng miền, đặc sản hữu cơ của Việt Nam để khẳng định vị thế thương hiệu Việt Nam.
Doanh nghiệp đang thực hiện thủ tục thành lập các văn phòng đại diện và chi nhánh tại nước ngoài tại các thị trường mục tiêu và có kho hàng để có thể bán trực tiếp cho khách hàng, nhưng thủ tục xin được cấp phép đầu tư ra nước ngoài tốn rất nhiều thời gian. Doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ thủ tục hành chính một cách thuận lợi nhất và nhanh nhất để mở rộng thị trường hơn nữa”.
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-3536-2025.html
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: