Khu vực tư nhân là trọng tâm trong nỗ lực chuyển dịch sang nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh
Mặc dù mô hình tăng trưởng kinh tế của quốc gia vẫn phát thải carbon ở mức cao, nhưng khu vực tư nhân của Việt Nam đã bắt đầu tận dụng các cơ hội tăng trưởng xanh. Khu vực tư nhân cũng sẽ là trọng tâm trong các nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm phát thải và chuyển dịch sang nền kinh tế giảm thải carbon...

Báo cáo "Việt Nam 2045- Tăng trưởng Xanh hơn: Con đường hướng tới tương lai bền vững" của Ngân hàng Thế giới công bố mới đây đã chỉ ra những cơ hội để Việt Nam giảm cường độ phát thải carbon trong nền kinh tế hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà Chính phủ đã đề ra.
Báo cáo nhấn mạnh vai trò trung tâm của khu vực tư nhân, đồng thời đề xuất các bước thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng, tận dụng các công nghệ năng lượng tái tạo có chi phí ngày càng hợp lý để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong công nghiệp. Nếu được quản lý hiệu quả, quá trình chuyển đổi này sẽ mở ra những động lực mới cho đổi mới sáng tạo, tăng trưởng và tạo việc làm.
THÁCH THỨC TĂNG TRƯỞNG TRONG ĐIỀU KIỆN GIẢM PHÁT THẢI CARBON
Báo cáo của WB chỉ rõ mặc dù đưa ra những cam kết tham vọng về biến đổi khí hậu, nhưng mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn có tỷ lệ phát thải carbon cao với tăng trưởng khí thải cộng dồn so tăng trưởng GDP cao hơn so với các quốc gia so sánh. Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực Đông Á- Thái Bình Dương tăng tỷ lệ phát thải carbon trong cơ cấu năng lượng và tăng tỷ lệ thâm dụng năng lượng so GDP trong thập kỷ qua.
Tỷ lệ phát thải carbon cao trong sản xuất gây rủi ro cho năng lực canh tranh và mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt Nam. Lượng khí thải CO2 ròng liên quan đến xuất khẩu vốn vẫn cao hơn các quốc gia so sánh kể từ đầu thập kỷ 2000 và tiếp tục tăng đến 36% sản lượng vào năm 2021.
Trong năm 2024, trên một nửa hàng xuất khẩu- 225 tỷ USD đến với các thị trường OECD chủ lực. Nhưng hiện nay, trên 90% GDP toàn cầu được tạo ra ở các quốc gia đã cam kết phát thải ròng bằng không trong các thập kỷ tới, khiến cho nhu cầu nhập khẩu của họ thay đổi.

Liên minh Châu Âu (EU) dự kiến triển khai Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), nhằm đánh thuế nhập khẩu trên năm mặt hàng thâm thải carbon dựa trên hàm lượng khí thải carbon trong sản xuất.
Mặc dù những sản phẩm đó chỉ chiếm chưa đến 4% xuất khẩu của Việt Nam sang EU, nhưng kế hoạch mở rộng cơ chế sang các sản phẩm khác có thể gây tác động lớn hơn. Ngoài ra, các công ty đa quốc gia đang ngày càng cam kết giảm phát thải khí nhà kính dọc theo các chuỗi giá trị của họ. Ví dụ, Sáng kiến RE100, về tiêu thụ 100% năng lượng ở cấp độ doanh nghiệp bằng các nguồn tái tạo vào năm 2030, có thể làm cho tiếp cận năng lượng sạch trở thành lợi thế cạnh tranh rõ ràng.
Phân tích của WB (2022) ước tính 2/3 các công ty đa quốc gia có trụ sở ở các nước thu nhập cao đều cam kết phát thải ròng bằng không hoặc cam kết chặt chẽ khác về khí hậu trong hoạt động. Bên cạnh đó là áp lực ngày càng lớn đối với các công ty đa quốc gia về đo lường, công khai và giảm tác động môi trường. Ví dụ, Chỉ thị Thẩm định toàn diện cẩn trọng về bền vững doanh nghiêp của EU (CSDDD) sẽ buộc các doanh nghiệp phải công khai dấu ấn môi trường và chứng minh là có hành động bảo vệ môi trường.
Vì vậy, các ngành công nghiệp của Việt Nam có thể phải đối mặt với khả năng tiếp cận thị trường ít hơn và nhu cầu giảm nếu không chuyển đổi sang các phương thức thực hành xanh, càng cho thấy nhu cầu cấp thiết phải hài hòa các nỗ lực khử thải carbon trong nước với xu hướng thị trường trên toàn cầu để bảo vệ cơ hội xuất khẩu và duy trì tăng trưởng.
NHẬN DIỆN CÁC CƠ HỘI TĂNG TRƯỞNG XANH CỦA VIỆT NAM
Theo báo cáo, mặc dù mô hình tăng trưởng kinh tế của quốc gia vẫn phát thải carbon ở mức cao, nhưng khu vực tư nhân của Việt Nam đã bắt đầu tận dụng các cơ hội tăng trưởng xanh. Trong thập kỷ qua, các hoạt động kinh tế xanh đã tăng trưởng nhanh chóng ở Việt Nam và đến nay đã có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP. Chính phủ ước tính các hoạt động kinh tế xanh tạo ra 6,7 tỷ USD trong năm 2020, tương đương 2% tổng GDP, với tốc độ tăng trưởng hàng năm 10-13% trong các năm 2018–2020.
Trong đó, đóng góp lớn nhất thuộc về ngành năng lượng ở mức 41% tổng lượng phát thải, tiếp theo là nông nghiệp và lâm nhiệp (28%) và các hoạt động công nghiệp (14%).
Việt Nam gần đây cũng đã chứng kiến tăng trưởng cao trong chế biến chế tạo và xuất khẩu công nghệ xanh, với xuất phát điểm thấp, nhưng các mặt hàng xuất khẩu đang có nguy cơ với xung đột thương mại toàn cầu.
Trong năm 2023, Việt Nam chiếm 5% xuất khẩu toàn cầu về tấm pin mặt trời. Xuất khẩu phụ tùng và thành phần trong chuỗi giá trị pin mặt trời tăng gần 10 lần trong giai đoạn 2012–2022, còn xuất khẩu trong chuỗi giá trị tua-bin gió và xe điện cũng tăng mạnh. Những mặt hàng xuất khẩu đó phải đối mặt với thách thức ở các thị trường xuất khẩu, bao gồm điều tra về hàng xuất khẩu tấm pin mặt trời sang Hoa Kỳ, là thị trường chính, của các cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ với phán quyết sơ bộ về chống trợ giá bất lợi cho Việt Nam vào tháng 10/2024.
Bên cạnh đó, việc tăng nhập khẩu hàng hóa thân thiện với môi trường như công nghệ đảm bảo hiệu suất thải carbon có thể giúp giảm tác động môi trường, nâng cao tiết kiệm năng lượng, tạo điều kiện thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi.
Theo WB, hiện nay, hàng hóa thân thiện môi trường của Việt Nam chỉ chiếm 3% tổng hàng hóa nhập khẩu, so với 5% và 6% lần lượt của Singapore và Hàn Quốc. Đó là thực tế mặc dù thuế quan Việt Nam áp dụng cho hàng hóa thân thiện môi trường (0,3%) thấp hơn nhiều so với bình quân toàn cầu (2%) do các cam kết trong Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương.

Việt Nam đã có giai đoạn công suất năng lượng xanh trong nước tăng mạnh trong điều kiện giá cả giảm mạnh, nhưng phải đối mặt với những khó khăn về thể chế trong việc phát triển lĩnh vực này.
Các chuyên gia cho rằng trong thời gian tới, Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để khu vực tư nhân khai thác nhu cầu gia tăng trên toàn cầu về các công nghệ, hàng hóa và dịch vụ xanh, với tiềm năng lớn cũng như với năng lượng xanh chi phí thấp. Ưu thế quan trọng của Việt Nam là quốc gia có vị trí ưu việt ở Đông Nam Á để phát triển năng lượng gió và mặt trời, là hình thức mới về lợi thế cạnh tranh. Quốc gia có tiềm năng kỹ thuật lớn nhất về gió và mặt trời trong khu vực, ước lên đến 1.000 GW mỗi năm, chủ yếu nhờ tiềm năng kỹ thuật lớn về gió.
Dự án điện gió ngoài khơi kết hợp với pin dự kiến sẽ trở nên rẻ hơn so với nhà máy điện than và điện khí mới trong nửa cuối của thập kỷ 2030. Điều này đem lại cơ hội đầu tư cho cộng đồng doanh nghiệp và các cấp có thẩm quyền ở Việt Nam nhằm thu hút các doanh nghiệm tìm kiếm các hình thức sản xuất thân thiện hơn với môi trường, như các thành viên của Nhóm Khí hậu RE100.
Đặc biệt báo cáo cũng nhấn mạnh khu vực tư nhân là trọng tâm trong các nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm phát thải và chuyển dịch sang nền kinh tế giảm thải carbon. Huy động vốn tư nhân là cần thiết để đáp ứng nhu cầu đầu tư, cụ thể trong các lĩnh vực các doanh nghiệp tư nhân có thể thúc đẩy nâng cao hiệu suất và đổi mới sáng tạo hiệu quả.
Theo Báo cáo về khí hậu và phát triển quốc gia (CCDR), thông qua những cải cách chính sách phù hợp, khu vưc tư nhân có thể cung cấp phần lớn nguồn tài chính cho nhiều lĩnh vực, bao gồm năng lượng và công nghiệp. Đầu tư tư nhân đến nay đã góp phần đáng kể cho công suất năng lượng tái tạo của quốc gia; chẳng hạn, lĩnh vực điện mặt trời của Việt Nam tăng trưởng từ mức gần bằng không lên 17 GW hiện nay, chủ yếu nhờ sự tham gia của khu vực tư nhân.
Ngoài năng lượng tái tạo, khu vực tư nhân còn có vai trò thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong nhiều ngành, lĩnh vực. Khử thải carbon, cụ thể trong các lĩnh vực như xi măng và thép, đòi hỏi đầu tư tư nhân lớn vào các quy trình và công nghệ giảm thải carbon, bao gồm áp dụng các phương thức thực hành tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi sang nhiên liệu sạch hơn, và đầu tư cho các giải pháp thu hồi và lưu trữ khí thải carbon.
Để đạt mục tiêu NetZero, Việt Nam phải tìm ra các giải pháp để giảm khí thải, đồng thời đảm bảo năng lượng vẫn trong khả năng chi trả và các ngành công nghiệp vẫn giữ được năng lực cạnh tranh.
Các chuyên gia cho rằng Việt Nam có thể hành động ngay bây giờ để giúp nền kinh tế tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, đồng thời hài hòa giữa phát triển kinh tế và giảm khí thải. Bằng cách đầu tư đúng mục tiêu và có chính sách hiệu quả, quốc gia có thể tiếp tục lộ trình phát triển với các bước tiến về nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu và giảm hàm lượng khí thải carbon.
Mặc dù chuyển đổi sang phát triển xanh hơn và có khả năng chống chịu cao hơn cũng có những thách thức, nhưng sẽ mở ra những động lực mới để tăng trưởng và tạo việc làm. Hiện nay, Việt Nam đã có khoảng 1,7 triệu việc làm xanh. Khi chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình mở rộng quy mô hành động thích ứng và giảm nhẹ, nhu cầu việc làm xanh dự kiến sẽ tăng lên, tạo ra các cơ hội mới về năng lượng tái tạo, hạ tầng chống chịu khí hậu, nông nghiệp thông minh với khí hậu, và kinh tế biển.