Ngành thủy sản “hụt hơi” vì Covid-19
Triển vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2021 đang rất khả quan, nhưng đã bị chững lại từ giữa tháng 7 khi làn sóng Covid-19 lần thứ tư bùng phát dữ dội ở khu vực trọng điểm sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản là TP.HCM và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đúng vào giai đoạn cao điểm thu hoạch, chế biến và xuất khẩu thủy sản....
Xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm 2021 đạt 4,88 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (Vasep), kết quả này là nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp thủy sản trong bối cảnh thiếu nhân lực lao động và khó thu mua nguyên liệu do Tp.HCM và 19 tỉnh thành phía Nam thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
“BA TẠI CHỖ” CHỈ LÀ GIẢI PHÁP TẠM THỜI
Số liệu của Vasep cho thấy nếu như nửa đầu tháng 7 xuất khẩu thủy sản vẫn giữ được mức tăng trưởng 16% thì sang nửa cuối tháng 7 đã đảo chiều, giảm tới 20% so với nửa đầu tháng, khiến cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả tháng 7 chỉ đạt 763 triệu USD, giảm khoảng 4% so với cùng kỳ năm 2020.
Xét theo từng nhóm sản phẩm, xuất khẩu tôm trong tháng 7 chỉ đạt 374 triệu USD, sụt giảm 4% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 7 tháng, xuất khẩu tôm vẫn giữ tăng trưởng 10% với 2,1 tỷ USD, chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành thủy sản.
Xuất khẩu cá tra và cá ngừ trong tháng 7 giảm khoảng 5%, đạt tương ứng 117 triệu USD và 60,5 triệu USD. Tính đến hết tháng 7/2021, xuất khẩu cá tra đạt 898 triệu USD, tăng 13%; xuất khẩu cá ngừ đạt 416 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2020. Xuất khẩu mực, bạch tuộc đạt 47 triệu USD trong tháng 7/2021, giảm 9% so với tháng 7/2020. Lũy kế 7 tháng, xuất khẩu mực và bạch tuộc đạt 314 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu các mặt hàng khác đều giảm, trong đó cua ghẹ giảm 3% và các loại cá khác giảm 2% trong tháng 7.
Tuy nhiên, nhờ tăng trưởng cao trong nửa đầu năm nên tính chung 7 tháng năm 2021, xuất khẩu thủy sản vẫn tăng 11%, đạt 4,88 tỷ USD. Trước đó, tính trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của cả nước vẫn đạt tăng trưởng 15% so với cùng kỳ năm ngoái, mang lại giá trị 4,1 tỷ USD nhờ doanh nghiệp thủy sản nỗ lực và linh hoạt để ổn định sản xuất, duy trì nguồn cung, tận dụng cơ hội của các thị trường.
Theo Vasep, triển vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2021 đang rất khả quan, nhưng đã bị chững lại từ giữa tháng 7 khi làn sóng Covid-19 lần thứ tư bùng phát dữ dội ở khu vực trọng điểm sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản là Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đúng vào giai đoạn cao điểm thu hoạch, chế biến và xuất khẩu thủy sản.
Các địa phương đồng loạt thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, yêu cầu các doanh nghiệp chỉ được duy trì hoạt động khi đảm bảo điều kiện “3 tại chỗ” hoặc “1 cung đường - 2 địa điểm” để phòng, chống dịch bệnh lây lan vào các nhà máy, các khu công nghiệp.
Các doanh nghiệp thủy sản đã chung tay sát cánh cùng Chính phủ thực hiện nghiêm các quy định nhằm vừa chống dịch vừa duy trì được sản xuất. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện đã phát sinh nhiều khó khăn, bất cập tác động lớn tới việc bảo đảm an toàn phòng chống dịch cũng như nỗ lực duy trì sản xuất, xuất khẩu. Hiện nay, chỉ có khoảng 30% các doanh nghiệp thủy sản tại các tỉnh thành phía Nam đảm bảo được điều kiện “3 tại chỗ” và số lượng công nhân có thể huy động cũng chỉ 30-50%. Công suất sản xuất trung bình đã giảm chỉ còn 40-50% so với trước đây.
Trong khi đó, nguyên liệu thủy sản huy động cho chế biến-xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 40-50% so với trước đây, do giãn cách xã hội nên khó thu mua tôm, cá nguyên liệu. Các vật tư, phụ liệu, bao bì...phục vụ chế biến thủy sản cũng bị thu hẹp, giảm công suất nguồn cung đến 50%.
Không chỉ sản xuất bị sụt giảm, nhiều đơn hàng phải gác lại hoặc bị mất, mà các chi phí cho doanh nghiệp để đảm bảo được “3 tại chỗ” cũng đã tăng vọt và đang tạo áp lực lớn cho doanh nghiệp.
CẦN KẾ HOẠCH CHỐNG DỊCH LINH HOẠT
“Việc thực hiện “3 tại chỗ” chỉ là biện pháp tình thế tạm thời trong thời gian ngắn hạn và chỉ có thể kéo dài 2-3 tuần đối với các doanh nghiệp vừa, các doanh nghiệp lớn hơn cũng duy trì tối đa 4-5 tuần” Vasep phản ánh.
Trong văn bản số 89/CV-VASEP gửi tới Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan mới đây để báo cáo các khó khăn trong phòng, chống dịch Covid-19 tại các nhà máy chế biến thuỷ sản và một số đề xuất, kiến nghị phục hồi sản xuất, xuất khẩu để đạt được mục tiêu kép, Vasep tha thiết đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét thứ tự ưu tiên các thành phần được tiêm vaccine ngừa Covid-19.
Văn bản nêu rõ, sau những người làm tại các cơ sở y tế, những cán bộ liên quan phải tiếp xúc với người dân, người cao tuổi, người có bệnh nền thì thứ tự tiếp theo là những người lao động tại các nhà máy đang áp dụng phương thức “3 tại chỗ” tại các địa phương.
Theo Vasep, nếu tập trung tiêm ngay vaccine cho người lao động tại các nhà máy chế biến thủy sản, chúng ta sẽ vừa giữ được thị trường đối tác xuất khẩu, vừa duy trì được sản xuất và công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, bao gồm cả nông-ngư dân khai thác biển và sản xuất nguyên liệu ở phía trước.
Thực hiện phương châm “Ba tại chỗ” chỉ là giải pháp tình thế không thể kéo dài do sức chịu đựng của các doanh nghiệp là có hạn. Đối với các ngành sản xuất xuất khẩu rất cần có một kế hoạch chống dịch linh động theo sát thực tế với tình hình khống chế dịch tại các địa phương.
Do đó, Vasep kiến nghị Bộ Y tế sớm hoàn thiện bộ quy tắc và tổ chức huấn luyện cho các tỉnh và doanh nghiệp thực hiện “Y tế tại chỗ”. Đồng thời, thực hiện chủ trương phối hợp và chia sẻ giữa doanh nghiệp và Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC) địa phương.
Theo đó, doanh nghiệp sẽ chủ động sử dụng tổ y tế, trạm y tế của nhà máy, công ty tự tổ chức xét nghiệm cho người lao động mỗi tháng hai lần. Mẫu xét nghiệm sẽ gửi cho cơ quan y tế và kết quả tự xét nghiệm của doanh nghiệp được áp dụng trong lưu thông và giao dịch.
Bộ Y tế cần đưa ra hướng dẫn xử lý kịp thời đối với các doanh nghiệp trong thực hiện “3 tại chỗ” như phát hiện F0, chỉ khoanh vùng và cách ly khu vực có nguy cơ, phun khử khuẩn, xét nghiệm... hướng dẫn các biện pháp an toàn “chặt trong, chặt ngoài” kiểm soát các nguồn lây nhiễm một cách hiệu quả và phù hợp nhằm giảm tổn thất cho doanh nghiệp và sinh kế cho công nhân, đồng thời đảm bảo an toàn dịch bệnh cho toàn nhà máy.
“Chính phủ đã có Nghị quyết 68 và Quyết định 23 với các chính sách, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp. Nhưng bình diện chung là việc thực thi còn chậm với nhiều lý do”, Vasep nêu thực tế. Vasep cũng kiến nghị trong tình trạng khẩn cấp hiện nay và những vấn đề phát sinh trong việc duy trì sản xuất “3 tại chỗ”, Thủ tướng Chính phủ cần sớm có chỉ đạo để chính quyền địa phương cùng hành động với các doanh nghiệp và các Hiệp hội khẩn trương triển khai các gói hỗ trợ đã có của Chính phủ.