Hợp tác phát triển thu hồi và lưu trữ carbon là mảnh ghép quan trọng trong chiến lược năng lượng Việt Nam

An Chi

27/06/2025, 14:21

Công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon (CCS) giúp giảm phát thải bằng cách liên tục thu gom CO2 từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam...

Ảnh minh hoạ (Nguồn: IEA)
Ảnh minh hoạ (Nguồn: IEA)

Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) năm 2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Việc triển khai thu hồi và lưu trữ carbon (CCS) có thể là một biện pháp quan trọng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu đầy tham vọng này.

CCS ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC GIẢM PHÁT THẢI Ở TẤT CẢ CÁC KHU VỰC TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 

Tại Hội thảo về công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon (CCS), do Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) và Tổ chức An ninh kim loại và năng lượng Nhật Bản (JOGMEC) phối hợp tổ chức tại Nghi Sơn (Thanh Hóa) mới đây, TS. Trịnh Xuân Cường, Phó Trưởng ban Thăm dò Khai thác Petrovietnam, cho biết Việt Nam giống như nhiều quốc gia khác, đang phải đối mặt với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra.

Vì vậy, chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp là điều cần thiết không chỉ để giảm thiểu những tác động này mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Để đạt được các mục tiêu về khí hậu của Việt Nam, đòi hỏi các giải pháp công nghệ đa dạng. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) là một trong những giải pháp rất quan trọng đối với tăng trưởng bền vững trong nền kinh tế carbon thấp. 

Theo TS. Trịnh Xuân Cường, Chính phủ Việt Nam đang tích cực thực hiện các cải cách và đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau để đạt được tương lai trung hòa carbon. Tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, thúc đẩy sự thay đổi trong chiến lược năng lượng để ưu tiên năng lượng tái tạo và các nguồn tài nguyên chuyển tiếp như khí đốt tự nhiên và hydro.

Do đó, để đạt được các mục tiêu về khí hậu của Việt Nam, đòi hỏi các giải pháp công nghệ đa dạng. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) là một trong những giải pháp rất quan trọng đối với tăng trưởng bền vững trong nền kinh tế carbon thấp. 

TS. Yamamoto Koji, Giám đốc Kỹ thuật đơn vị Kinh doanh Năng lượng JOGMEC, cũng cho biết hoạt động hợp tác về trung hòa carbon giữa Việt Nam và Nhật Bản có những nét tương đồng khi Thủ tướng Việt Nam và Thủ tướng Nhật Bản đều cam kết hướng tới mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2050.

Trong đó, nhấn mạnh sự cần thiết và lợi ích của CCS đối với carbon trung tính, thực hiện cách giảm phát thải bằng cách liên tục thu gom CO2 từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch; đồng thời hỗ trợ cho các ngành công nghiệp trong nước khó giảm thiểu phát thải (thép, xi măng, lọc dầu…). Bởi vậy, lợi ích và sự cần thiết của các công nghệ thu hồi và sử dụng CO2 hiện có như Nghiên cứu chung CO2 EOR - JOGMEC/Petrovietnam/JVPC (2012) là cực kỳ quan trọng.

TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC CCS

 Theo ông Hoàng Văn Tâm, Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công, Bộ Công Thương, nhiều năm qua, Nhà nước đã thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực năng lượng và công nghiệp như khuyến khích cải tiến quy trình sản xuất, tăng cường tái chế và sử dụng nguyên liệu tái chế, chuyển đổi sang nguồn năng lượng tái tạo, tăng cường hiệu quả năng lượng, khuyến khích sử dụng năng lượng sạch và thu hồi, lưu giữ và sử dụng carbon.

Bộ Công Thương đã ban hành Quy định về kiểm kê và MRV (đo đạc, báo cáo và thẩm định khí nhà kính) trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp (Thông tư số 38/2023/TT-BCT). Thực hiện MRV sẽ tăng tính minh bạch, khách quan thông qua cung cấp dữ liệu chính xác để định lượng phát thải thực tế.

Cần tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế song hành cùng việc hoàn thiện cơ chế chính sách và các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cũng như đào tạo, nâng cao năng lực cho địa phương và mạng lưới các chuyên gia, đơn vị tư vấn trong lĩnh vực CCS.

Mặt khác, hệ thống MRV bảo đảm độ tin cậy nên tăng cường sự tin tưởng giữa các bên tham gia (doanh nghiệp, nhà nước, quốc tế), đồng thời giảm thiểu gian lận trong giao dịch tín chỉ carbon để nhà nước quản lý hiệu quả hơn. Đây cũng là yếu tố bắt buộc trong các cơ chế quốc tế khi hệ thống MRV giám sát giảm phát thải khí nhà kính ở mọi cấp độ.

Tuy nhiên, ông Tâm cũng chia sẻ rằng các quy định của pháp luật về lĩnh vực CCS đang cần thời gian để hoàn thiện. Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, cũng như chưa có đủ nguồn lực tài chính và kỹ thuật tương xứng triển khai ngành công nghiệp này tại Việt Nam.

"Chính vì vậy, tôi cho rằng, cần phải tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế song hành cùng việc hoàn thiện cơ chế chính sách và các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cũng như đào tạo, nâng cao năng lực cho địa phương và mạng lưới các chuyên gia, đơn vị tư vấn trong lĩnh vực CCS," ông Tâm nhấn mạnh.

Theo thống kê của JOGMEC, chỉ tính riêng các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam thì nguồn CO2 đã rất lớn. Đơn cử như một số nhà máy nhiệt điện có mức độ phát thải 6-7 triệu tấn CO2/năm; Các nhà máy xi măng cũng phát thải 2-3 triệu tấn CO2/năm. "Bởi vậy, chúng tôi khẳng định sự cần thiết phải đẩy nhanh việc thiết lập môi trường kinh doanh cho CCS tại Việt Nam và tăng cường hợp tác giữa hai nước để khởi động một dự án CCS", TS. Yamamoto Koji cho biết.

Là tập đoàn nhà nước chịu trách nhiệm về các hoạt động dầu khí trong nước và quốc tế, đại diện Petrovietnam chia sẻ hiện tại Petrovietnam nói riêng và Việt Nam nói chung thiếu các quy định để triển khai và quản lý các dự án CCS tại Việt Nam. Petrovietnam đã nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm từ 5 quốc gia đã triển khai các dự án CCS là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Australia và Canada để xây dựng cách tiếp cận phù hợp.

"Nhật Bản đã đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển các giải pháp quản lý năng lượng tái tạo và giảm khí carbon", TS. Cường cho biết. "Kinh nghiệm của Nhật Bản sẽ vô cùng quý giá khi chúng tôi thúc đẩy các sáng kiến CCS của mình. Sự hợp tác này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm xây dựng khung pháp lý, đào tạo kỹ thuật, đầu tư và thu xếp vốn vào các dự án CCS, cũng như tham gia vào hoạt động giao dịch phát thải".

Đọc thêm

Dòng sự kiện

Giá vàng trong nước và thế giới

Giá vàng trong nước và thế giới

VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.

Bài viết mới nhất

Bài viết mới nhất

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025

Sáng kiến Diễn đàn thường niên Kinh tế mới Việt Nam (VNEF) đã được khởi xướng và tổ chức thành công từ năm 2023. VNEF 2025 (lần thứ 3) có chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu".

Bài viết mới nhất

VnEconomy Interactive

VnEconomy Interactive

Interactive là một sản phẩm báo chí mới của VnEconomy vừa được ra mắt bạn đọc từ đầu tháng 3/2023 đã gây ấn tượng mạnh với độc giả bởi sự mới lạ, độc đáo. Đây cũng là sản phẩm độc quyền chỉ có trên VnEconomy.

Bài viết mới nhất

Trợ lý thông tin kinh tế Askonomy - Asko Platform

Trợ lý thông tin kinh tế Askonomy - Asko Platform

Trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là generative AI, phát triển mạnh mẽ, Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy đã tiên phong ứng dụng công nghê để mang đến trải nghiệm thông tin đột phá với chatbot AI Askonomy...

Bài viết mới nhất

Phát triển kinh tế tầm thấp và UAV “Phải là câu chuyện của quốc gia”

Phát triển kinh tế tầm thấp và UAV “Phải là câu chuyện của quốc gia”

Hợp tác kinh tế Việt Nam - Argentina còn nhiều dư địa phát triển

Hợp tác kinh tế Việt Nam - Argentina còn nhiều dư địa phát triển

Những đồng tiền mất giá trị mạnh nhất năm 2025

Những đồng tiền mất giá trị mạnh nhất năm 2025

Asko AI Platform

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính:

VnEconomy