

“Hợp tác theo Điều 6.2 Thỏa thuận Paris nói chung và hợp tác trong khuôn khổ cơ chế JCM với Nhật Bản nói riêng là một trong những hợp tác mang lại nhiều hiệu quả. Đây cũng là tiền đề quan trọng cho các quốc gia thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính hiệu quả.
Trong bối cảnh mới, đặc biệt sau Hội nghị Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26, đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để tạo điều kiện cho hợp tác theo Điều 6.2 và hợp tác theo cơ chế JCM hiệu quả, phù hợp với quy định quốc tế cũng như quy định của các nước tham gia cơ chế này.
Để hoàn thiện hành lang pháp lý, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2025/NĐ-CP ngày 9/6/2025 đã có quy định hợp tác theo Điều 6.2. Tuy nhiên, quy định này theo thỏa thuận quốc tế ký kết giữa Việt Nam và các quốc gia. Còn các quy định cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng Nghị định trao đổi quốc tế về kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.
Nghị định dự kiến được trình Chính phủ trong năm 2025 sẽ có các quy định cụ thể mà Nghị định 119 chưa đề cập như việc đăng ký phê duyệt phương pháp luận tạo tín chỉ carbon, đăng ký phê duyệt dự án, phê duyệt tín chỉ carbon, chuyển giao tín chỉ carbon quốc tế.
Với cơ chế JCM, bên cạnh mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển bền vững, còn tạo ra tín chỉ carbon, phục vụ phát triển thị trường carbon. Cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia các dự án theo cơ chế JCM là rất lớn và có nhiều thuận lợi.
Hiện nay chúng tôi đang hoàn thiện một số tài liệu như: thỏa thuận với Nhật Bản về thực hiện cơ chế JCM. Các quy định mới theo Điều 6.2 được ban hành và các quy định pháp lý trong nước của Việt Nam và Nhật Bản mới được cập nhật nên thỏa thuận hợp tác này cũng cần được cập nhật theo. Bên cạnh đó, phải hoàn thiện các quy tắc và hướng dẫn thực hiện các dự án.
Theo quy định của Nghị định 119, tín chỉ carbon được tạo ra từ cơ chế JCM có thể tham gia vào thị trường carbon của Việt Nam.
Thị trường carbon Việt Nam, từ nay đến năm 2028 sẽ vận hành thử nghiệm, từ năm 2029 sẽ vận hành chính thức và kết nối với thị trường quốc tế.
Hiện nay, với quyết tâm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Bộ Tài chính, chúng tôi đang hoàn thiện các khuôn khổ hành lang pháp lý để vận hành sàn giao dịch carbon. Bộ Tài chính đã trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị định quy định về sàn giao dịch carbon.
Về phía Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chúng tôi đang khẩn trương hoàn thiện hệ thống đăng ký hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; kèm theo đó là Thông tư hướng dẫn sử dụng hệ thống đăng ký.
Bộ cũng tập trung hoàn thiện các hạ tầng hệ thống đăng ký, các bài toán nghiệp vụ của Tổng Công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội”.

“Trong bối cảnh toàn cầu đẩy mạnh cuộc đua hướng tới phát thải ròng bằng “0” (Net Zero), Việt Nam không đứng ngoài xu thế đó. Tại Hội nghị COP28, Thủ tướng Chính phủ đã tái khẳng định cam kết đưa Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Cùng với cộng đồng doanh nghiệp toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam đang tích cực tìm kiếm và triển khai các giải pháp sáng tạo nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời tạo ra giá trị kinh tế bền vững. Trong đó, phát triển hydro xanh nổi lên như một hướng đi chiến lược, mang lại nhiều triển vọng.
Việt Nam sở hữu điều kiện tự nhiên và địa lý thuận lợi để phát triển năng lượng tái tạo với tổng tiềm năng ước tính hơn 1.000 GW, trong đó bao gồm khoảng 650 GW điện gió và 380 GW điện mặt trời.
Theo Quy hoạch điện VIII, điện mặt trời và điện gió sẽ tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ, đạt 47 GW vào năm 2030 và tăng lên 313 GW vào năm 2050. Đáng chú ý, hơn 680 GW nguồn điện tái tạo có thể được tận dụng để sản xuất hydro xanh.
Tuy nhiên, hiện trạng cho thấy tại Việt Nam việc khai thác các nguồn năng lượng này chưa được tối ưu. Trong năm 2022, tổng công suất điện tái tạo được lắp đặt tại Việt Nam đã đạt 21.000 MW, nhưng vẫn còn hơn 4.736 MW chưa được đấu nối vào lưới điện quốc gia. Trước tình trạng này, giải pháp sản xuất hydro xanh từ điện dư được xem là bước đi chiến lược để giải bài toán cả về năng lượng và môi trường.
Việt Nam đặt mục tiêu sản xuất từ 100.000-500.000 tấn hydro xanh và xanh lam mỗi năm vào năm 2030, và đạt mức 10-20 triệu tấn/năm vào năm 2050. Đây là con số đầy tham vọng, đồng thời thể hiện rõ quyết tâm chuyển đổi năng lượng của quốc gia.
Đóng góp vào mục tiêu đó, Tập đoàn Obayashi (Nhật Bản) đã khởi động kế hoạch phát triển chuỗi cung ứng hydro tại Việt Nam, gồm các công đoạn: sản xuất, vận chuyển và sử dụng. Mô hình này không chỉ được kỳ vọng giúp thay thế năng lượng hóa thạch, mà còn tạo ra hướng đi mới cho các ngành công nghiệp và hệ sinh thái năng lượng sạch tại địa phương.

Một trong những bước đi cụ thể là dự án thí điểm sản xuất và lưu trữ hydro xanh tại Khu nhà máy Kizuna 3 - Long An (nay là Tây Ninh), do Obayashi phối hợp triển khai cùng liên doanh KIZUNA và các doanh nghiệp khác. Dự án sử dụng điện mặt trời dư thừa tại khu vực chưa có hệ thống truyền tải điện ổn định để sản xuất, lưu trữ và sử dụng hydro xanh ngay tại chỗ. Mục tiêu của dự án là thay thế năng lượng hóa thạch và giảm phát thải khoảng 1.000 tấn CO2 trong giai đoạn thử nghiệm.
Toàn bộ hệ thống được thiết kế gồm ba giai đoạn: điện phân nước tạo hydro bằng thiết bị sử dụng điện dư; lưu trữ hydro; và sử dụng tại chỗ trong các nhà máy địa phương. Đặc biệt, đây là mô hình “vận chuyển năng lượng mới”, giúp kết nối các doanh nghiệp năng lượng tái tạo với người tiêu dùng mà không cần đầu tư hạ tầng truyền tải điện. Người sử dụng có thể tiếp cận và tiêu thụ năng lượng sạch mà không phát sinh chi phí ban đầu. Để đảm bảo minh bạch và đánh giá hiệu quả, dự án cũng tiến hành xây dựng phương pháp đo lường – báo cáo – thẩm tra (MRV) nhằm hướng tới áp dụng cơ chế tín chỉ chung (JCM).
Tại Nhật Bản, Tập đoàn đã triển khai nhiều dự án tiêu biểu như: sản xuất hydro từ năng lượng tái tạo tại Tokyo, sản xuất hydro từ địa nhiệt tại Oita, và cung cấp điện – nhiệt từ hydro tinh khiết tại Hyogo. Đây là nền tảng để doanh nghiệp mang công nghệ và tri thức đến Việt Nam.
Đầu tư tại Việt Nam, sẽ không chỉ dừng lại ở phạm vi nội địa, Obayashi còn định hướng mở rộng kinh doanh hydro tại khu vực Đông Nam Á. Trong tương lai, dự kiến sẽ hình thành chuỗi vận chuyển hydro bằng đường biển từ cảng Quy Nhơn ra miền Bắc Việt Nam và sang Singapore. Bên cạnh đó là vận chuyển bằng đường bộ tới các quốc gia lân cận như Thái Lan, Campuchia và Lào.
Dù hydro xanh được xem là tương lai của năng lượng sạch, nhưng ngành này vẫn đối mặt với không ít thách thức như chi phí sản xuất còn cao, hạ tầng chưa đồng bộ và thiếu các chính sách hỗ trợ đủ mạnh. Giải pháp đặt ra là cần đẩy mạnh hợp tác công – tư, xây dựng cơ chế hỗ trợ từ nhà nước, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế để tranh thủ công nghệ và nguồn lực tài chính.
Việc phát triển bền vững ngành hydro xanh không chỉ giúp Việt Nam hiện thực hóa cam kết Net Zero mà còn tạo ra thế mạnh cạnh tranh cho ngành công nghiệp, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng và nâng cao vị thế trên bản đồ kinh tế xanh toàn cầu. Nếu được đầu tư và phát triển đúng hướng, hydro xanh sẽ là mũi nhọn trong chiến lược chuyển dịch năng lượng của Việt Nam. Không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao khả năng tự chủ năng lượng, mà còn mở ra thị trường mới trong xuất khẩu năng lượng sạch.
Cuộc đua Net Zero là chặng đường dài, đòi hỏi nỗ lực không ngừng từ cả Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Với nền tảng tiềm năng sẵn có, sự vào cuộc của các doanh nghiệp tiên phong như Obayashi cùng định hướng chính sách rõ ràng từ Chính phủ, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu hydro xanh trong khu vực trong tương lai không xa”.

“Sàn giao dịch carbon trong nước do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng sẽ cung cấp cơ chế xác định giá của các hạn ngạch phát thải khí nhà kính, của các tín chỉ carbon ở trên thị trường. Đồng thời, cung cấp phương thức, địa điểm giao dịch an toàn, minh bạch, công khai, công bằng cho các chủ thể tham gia giao dịch. Nhà nước đã và đang ban hành các văn bản tạo hành lang pháp lý cho thị trường phát triển. Các cơ quan quản lý nhà nước sẽ không trực tiếp can thiệp vào giá bán của các giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính hay tín chỉ carbon.
Tuy nhiên, thông qua một số chính sách, các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thể ảnh hưởng trực tiếp đến giá hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Ví dụ về mặt nguồn cung, hiện tại chúng ta đang dự kiến phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính miễn phí cho các doanh nghiệp thuộc danh mục. Tùy thuộc vào khối lượng, số lượng hạn ngạch phân bổ, sẽ ảnh hưởng đến giá bán hạn ngạch trên thị trường. Nếu chúng ta phân bổ quá nhiều, giá hạn ngạch trên thị trường sẽ giảm. Nếu doanh nghiệp thấy không có nhu cầu phải mua thêm hạn ngạch, thì quy mô giao dịch, tính thanh khoản trên thị trường sẽ gần như không có.
Trong tương lai, có thể sau năm 2029, chúng ta có thể nghiên cứu áp dụng cơ chế đấu giá các hạn ngạch này, tức là các doanh nghiệp sẽ phải trả một phần chi phí cho hạn ngạch. Việc chuyển đổi hạn ngạch từ phân bổ miễn phí sang cơ chế phân bổ thông qua đấu giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá hạn ngạch phát thải khí nhà kính trên thị trường.
Mặt khác, đối với giá tín chỉ, theo Nghị định số 119/2025/NĐ-CP của Chính phủ vừa ban hành, tỷ lệ bù trừ giữa hạn ngạch và tín chỉ tại Việt Nam đang ở mức 30%. Theo thông lệ quốc tế, hiện Liên minh châu Âu không cho phép sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ cho phần thâm hụt của hạn ngạch. Chính sách 30%; 20% hay 10% hoặc không cho dùng tín chỉ để bù trừ hạn ngạch phát thải cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá của hạn ngạch hoặc giá bán tín chỉ carbon trên thị trường.
Ngoài ra có một vấn đề ở tương lai xa, trong trường hợp sau giai đoạn tiến hành thí điểm, dựa trên nhu cầu, quy mô thực tiễn của thị trường, có thể Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng với Bộ Tài chính sẽ phối hợp nghiên cứu có thêm được một số tổ chức hỗ trợ về thanh khoản, một số tổ chức tạo lập thị trường theo thông lệ quốc tế. Vấn đề này cũng có thể ảnh hưởng đến giá của hạn ngạch cũng như tín chỉ carbon.
Thị trường carbon là rất mới tại Việt Nam nên việc dự báo, mô phỏng cho thị trường này là việc không dễ. Vì thế, theo Quyết định số 232/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, cũng như Nghị định 119 đã đặt ra giai đoạn thí điểm đến hết năm 2028.
Chúng ta hướng đến mô hình thị trường hoàn thiện hơn, nhưng trước mắt sẽ bắt đầu bằng việc có một sàn để giao dịch tập trung cho các sản phẩm này. Tiếp theo sẽ dần giới thiệu một số cơ chế, tiện ích để hỗ trợ thị trường, doanh nghiệp và hỗ trợ mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam”.

“Với mục tiêu góp phần giảm phát thải khí nhà kính và nâng cao thu nhập cho nông dân, Green Carbon – một tổ chức tiên phong trong lĩnh vực nông nghiệp carbon đang triển khai hàng loạt dự án trên khắp Việt Nam, từ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến các tỉnh Bắc Trung Bộ. Những mô hình này không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, mà còn mở ra hướng đi bền vững cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
Green Carbon hiện đang triển khai nhiều mô hình canh tác tiên tiến, nổi bật là kỹ thuật tưới khô – ướt xen kẽ (AWD). Kỹ thuật này đã được chứng minh là giúp giảm phát thải khí mê-tan tới 50% so với phương pháp canh tác ngập nước truyền thống. Đồng thời, AWD còn góp phần tăng năng suất lúa khoảng 5%, giảm chi phí sản xuất nhờ tiết kiệm nước và thuốc bảo vệ thực vật, từ đó gia tăng thu nhập cho nông dân khoảng 150 USD/ha/năm.
Các mô hình này đang mang lại hiệu quả thiết thực: giảm phát thải khí nhà kính, giúp bà con cải thiện sinh kế nhờ gia tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất và mở rộng cơ hội tiếp cận tín chỉ carbon.
Dựa trên đặc điểm địa lý và nông nghiệp đa dạng của Việt Nam, Green Carbon đã ký kết Biên bản ghi nhớ với nhiều viện nghiên cứu nông nghiệp tại các vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Các chương trình hợp tác tập trung vào đo lường phát thải khí mê-tan và nghiên cứu các giải pháp canh tác phù hợp với từng vùng sinh thái.
Ngoài ra, Green Carbon hiện đang phối hợp với Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Viện Di truyền Nông nghiệp triển khai dự án lưu trữ carbon trong đất bằng cách trồng xen các giống cây như đậu tương trong giai đoạn đất bỏ hoang. Đây được xem là hướng đi mới để nâng cao khả năng hấp thụ carbon, phục hồi đất và đa dạng hóa sinh kế cho nông dân.
Không chỉ tập trung vào kỹ thuật, chúng tôi còn chú trọng đến yếu tố xã hội khi cam kết chia sẻ lợi nhuận, tạo việc làm, tăng năng suất và hỗ trợ sinh kế cho cộng đồng địa phương. Các sáng kiến như sản xuất than sinh học (6.000 tấn/năm), phục hồi rừng ngập mặn (3.000 ha) và tái trồng rừng (4.000 ha) cho thấy nỗ lực toàn diện của tổ chức trong việc phát triển nông nghiệp – môi trường – xã hội một cách hài hòa.
Với cách tiếp cận tích hợp giữa công nghệ, nghiên cứu và gắn kết cộng đồng, Green Carbon đang từng bước định hình một hướng đi mới cho ngành nông nghiệp Việt Nam – nơi các giá trị kinh tế, môi trường và con người cùng được đặt lên hàng đầu”.

“Việc Việt Nam và Nhật Bản đều đã và đang xây dựng các thị trường tín chỉ carbon nội địa và quốc tế của riêng mình, sẽ tạo thêm nhiều cơ hội để phát triển hoạt động mua bán tín chỉ carbon trong nước cũng như xuyên biên giới.
Cả hai quốc gia đã có quá trình hợp tác kéo dài hơn 1 thập kỷ thông qua Cơ chế tín chỉ chung (JCM). JCM là một cách tiếp cận giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và giảm phát thải nhà kính thông qua cung cấp giải pháp thực tế bằng những công cụ như hỗ trợ tài chính, chuyển giao công nghệ và có sự tham gia thực chất của hai quốc gia. Đây là một điểm đặc biệt của cơ chế này.
Bên cạnh đó, JCM cũng có khả năng tạo ra tín chỉ thông qua những khuôn khổ như Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu cũng như quy định về thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam và Nhật Bản. Điều này có nghĩa, những tín chỉ được phát hành bởi cơ chế JCM sẽ có tính minh bạch, uy tín và đảm bảo về chất lượng.
Cơ chế JCM giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ đóng góp quan trọng trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu. Cả hai bên đều đặt nhiều kỳ vọng vào sự phát triển của cơ chế này. Trong thời gian tới, chính phủ hai nước sẽ hợp tác chặt chẽ để nghiên cứu tính khả thi về mặt kinh tế cho các dự án giảm phát thải cũng như sự phù hợp về mặt chính sách trong khuôn khổ JCM.
Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam, thông qua cơ chế JCM, trong thời gian qua cũng đã tham gia vào một số dự án giảm phát thải ứng dụng công nghệ cao như xây dựng nhà máy điện sinh khối. Công nghệ và kinh nghiệm thu được từ những dự án này cũng có thể được chia sẻ với các quốc gia khác đang trải qua quá trình giảm phát thải nền kinh tế và có những tương đồng với Việt Nam”.

“Từ kinh nghiệm làm việc hơn 20 năm trong lĩnh vực chống biến đổi khí hậu và tham gia khi cơ chế JCM còn trong giai đoạn đầu, tôi thấy Việt Nam đang có động lực phát triển mạnh mẽ trong việc áp dụng cơ chế JCM cũng như xây dựng thị trường giao dịch tín chỉ carbon và giao dịch phát thải (ETS) trong nước và quốc tế.
Nhìn tổng thể về sự phát triển của thị trường giao dịch tín chỉ carbon, được khai sinh từ Cơ chế phát triển sạch (CDM), chúng ta giờ đây đã có bước phát triển mới khi mỗi quốc gia đang xây dựng thị trường giao dịch nội địa. Liên minh châu Âu (EU) hiện là khu vực có thị trường ETS lớn nhất. Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil cũng đang xây dựng thị trường ETS của riêng mình.
Bên cạnh những nền kinh tế hàng đầu, các quốc gia tại khu vực Đông Nam Á cũng bắt đầu tham gia vào lĩnh vực này. Theo đó, Singapore đã ban hành thuế carbon. Việt Nam cũng có kế hoạch đưa thị trường ETS vào hoạt động, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và ban hành quy định về thị trường carbon. Ngoài ra, các quốc gia như Indonesia, Malaysia và Philippines cũng đang bám sát xu thế này.
Đánh giá về sự chuẩn bị, Việt Nam đã tỏ rõ tham vọng của mình khi đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cũng như đưa ra các cam kết lớn trong đóng góp do quốc gia tự quyết (NDC).
Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ, trong đó nổi bật là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính đang xây dựng một khung pháp lý rất mạnh mẽ cũng như một số quy định về kỹ thuật. Một lợi thế khác cho Việt Nam là có thể sử dụng kinh nghiệm khi tham gia cơ chế JCM trong hơn 10 năm qua để đẩy nhanh quá trình thực thi quy định về thị trường carbon trong nước.
Theo đó, cơ chế JCM cung cấp một số điều khoản khá chặt chẽ về cách tính toán lượng khí thải được phân bổ cho các nhóm dự án khác nhau cũng như quy định đăng ký, phê chuẩn và theo dõi các dự án. Hơn nữa, các doanh nghiệp đã tham gia cơ chế JCM tại nhiều quốc gia cũng sẽ dễ dàng thích ứng hơn khi tham gia thị trường carbon nội địa tại Việt Nam nếu áp dụng những điều khoản trên.
Nhật Bản hy vọng việc tham gia cơ chế JCM giúp Việt Nam có kinh nghiệm xây dựng quy định về theo dõi, đánh giá cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật”.

“Với tập đoàn Vingroup, khoảng trống về thông tin là vấn đề doanh nghiệp cảm thấy rất khó khăn khi muốn tham gia vào thị trường carbon quốc tế theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris.
Thị trường carbon nói chung và thị trường theo Điều 6 nói riêng vẫn là một lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Do đó, còn nhiều điều các doanh nghiệp như chúng tôi chưa nắm bắt được cụ thể, đặc biệt là quy trình, các bước mà Tập đoàn cần thực hiện để tham gia thị trường theo Điều 6.
Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 119 với mục tiêu sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn. Trong Nghị định 119 đã quy định cụ thể hơn các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế theo Điều 20a. Điều này phần nào khỏa lấp khoảng trống thông tin với doanh nghiệp.
Chúng tôi cũng kỳ vọng vào Nghị định mới quy định về trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải và tín chỉ carbon được ban hành sẽ có những hướng dẫn cụ thể hơn với việc tham gia thị trường carbon theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris cho các doanh nghiệp, Vingroup, cũng như những chủ dự án khác có tiềm năng và nguyện vọng tham gia thị trường.
Đối với việc giảm phát thải khí nhà kính tại Việt Nam của tập đoàn, trong 3 năm trở lại đây, Vinfast đã bán gần 400 nghìn phương tiện, dự kiến trong toàn bộ vòng đời của các phương tiện này sẽ giúp giảm phát thải 5,9 triệu tấn CO2. Đi kèm với đó là hệ thống trạm sạc, với 150 nghìn cổng sạc được triển khai trên toàn quốc. Lượng phát thải khí nhà kính từ việc lựa chọn XanhSM trong năm 2024 đã giảm 150.000 tấn CO2. Ngoài ra với hơn 300 xe bus điện phục vụ 31 tuyến ở 5 thành phố như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Mình… ước tính trong năm 2024 đã giảm phát thải khí nhà kính khoảng 48.000 tấn CO2.
VinEnergo được thành lập mới đây cũng đang triển khai các dự án điện năng lượng tái tạo (14.000 MW) và nhiệt điện LNG (4.800 MW) với mục tiêu đến năm 2035 sẽ nâng công suất lên khoảng 47.100 MW.
Ngoài ra, tập đoàn cũng triển khai, đăng ký một số dự án về tín chỉ carbon theo tiêu chuẩn quốc tế như: dự án tín chỉ carbon cho hệ thống trạm sạc xe điện của V-Green định hướng theo tiêu chuẩn VCS (Verified Carbon Standard) của Verra sẽ bắt đầu thực hiện đăng ký từ tháng 7/2025; Dự án xe máy điện VinFast cũng được đăng ký theo tiêu chuẩn GS4GG của Gold Standard; Dự án điện mặt trời tại Sơn La dự kiến đăng ký theo tiêu chuẩn GCC.
Bên cạnh đó, chúng tôi đã xác định một số dự án tiềm năng khác như: các dự án năng lượng tái tạo (VinEnergo); dự án đường sắt cao tốc (VinSpeed); Dịch vụ vận tải điện VinBus và taxi Xanh SM; dự án tòa nhà đô thị xanh…
Về định hướng tham gia thị trường carbon, chúng tôi xác định 4 thị trường carbon chính gồm: thị trường tuân thủ NDC (theo Điều 6 Thỏa thuận Paris); Thị trường tuân thủ CORSIA dành cho các hãng hàng không; tham gia thị trường tuân thủ nội địa (ETS) sắp được thí điểm và tham gia thị trường tự nguyện (VCM).
Vingroup định hướng tham gia tất cả các thị trường, tùy thuộc vào điều kiện thực tế và cơ hội phù hợp. Qua đó, nhằm mục tiêu lượng hóa nỗ lực chuyển đổi xanh của doanh nghiệp; đồng thời tạo ra nguồn doanh thu bổ sung.
Chúng tôi mong muốn có cơ hội hợp tác với các đối tác Nhật Bản trong việc triển khai các dự án tín chỉ carbon và tham gia vào cơ chế JCM giữa Việt Nam và Nhật Bản”.

VnEconomy 29/07/2025 10:00
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 30-2025 phát hành ngày 28/7/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1188
