

“Chúng tôi là cơ quan đã tham vấn cho Chính phủ trong việc đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Cam kết này được Thủ tướng Chính phủ công bố tại COP26 vào năm 2021, không chỉ nhấn mạnh tiềm năng to lớn của Việt Nam về năng lượng gió và năng lượng mặt trời, mà còn đề cập đến sự hỗ trợ quốc tế và các cơ chế tài chính, cơ chế từ Thỏa thuận Paris.
Cơ quan của chúng tôi đã chuyển những cam kết này thành kế hoạch chi tiết cho từng giai đoạn. Cam kết cũng được thể hiện trong đóng góp quốc gia tự quyết định, đã được sửa đổi vào năm 2022 và trình lên Liên hợp quốc, với mục tiêu cụ thể cho năm 2030. Mục tiêu này cũng đã được nêu trong Quy hoạch điện 8. Theo đó đến năm 2030, với nội lực, Việt Nam sẽ giảm 15% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản thông thường. Nếu có sự hỗ trợ quốc tế đầy đủ, mức giảm phát thải khí nhà kính có thể đạt đến 42% so với kịch bản thông thường. Dự báo, lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cho đến năm 2035. Tuy nhiên, nhờ chuyển đổi năng lượng công bằng và sự hỗ trợ quốc tế, chúng ta sẽ có thể đạt đỉnh phát thải vào năm 2030, sau đó lượng phát thải sẽ giảm dần.
Hiện tại, chúng tôi đang rà soát và chuẩn bị xây dựng cam kết mới của Việt Nam cho giai đoạn 2026-2035, đồng thời đánh giá kết quả thực hiện cam kết đến thời điểm năm 2025. Thật đáng tiếc, kết quả đánh giá hiện nay cho thấy, chỉ khoảng 40-50% các biện pháp cam kết đã được thực hiện. Các biện pháp khác vẫn đang được đánh giá, có thể sau hơn một tháng nữa mới có kết quả cụ thể. Tuy nhiên, với tình hình hiện tại, nguy cơ không đạt được cam kết về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là rất cao. Nếu kết quả đánh giá cuối cùng xác nhận điều này, chúng tôi sẽ phải báo cáo Chính phủ về khả năng không thực hiện được cam kết nếu tiếp tục triển khai như hiện nay, để Chính phủ có sự điều chỉnh các biện pháp thực hiện.
Dù chúng ta đã có chủ trương đúng đắn trong việc giảm phát thải khí nhà kính, nhưng việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn, tiến độ thực hiện rất chậm. Trong khi đó, ngành năng lượng cần phải đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trong năm 2025 và trên 10% mỗi năm trong giai đoạn 2026-2030. Điều này sẽ đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng và gia tăng phát thải.
Việt Nam có thể đạt được mục tiêu phát thải thấp trong khi vẫn duy trì tăng trưởng cao hay không. Đây là một thách thức rất lớn và chúng tôi mong muốn tất cả chúng ta cùng chung tay để thực hiện mục tiêu này. Chúng tôi hy vọng rằng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam sẽ giảm nhanh hơn so với kịch bản phát triển thông thường. Để đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, cần phát triển mạnh mẽ điện năng lượng mặt trời, điện năng lượng gió và điện hạt nhân”.

“Tổng mức đầu tư để phát triển năng lượng theo dự thảo Quy hoạch điện 8 điều chỉnh lên tới 136 tỷ USD. Nếu huy động vốn trong nước, gồm tất cả các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp lớn của chúng ta, cũng không đảm bảo khoảng 30% do các giới hạn nhất định. Như vậy, trong số 136 tỷ USD đó, Việt Nam phải huy động khoảng 70-80 tỷ USD từ bên ngoài.
Chúng ta bàn nhiều về kỹ thuật. Tuy nhiên, tất cả vấn đề kỹ thuật, công nghệ trên thế giới đều có sẵn, kể cả những công nghệ khó như năng lượng hạt nhân, với rất nhiều nhà cung cấp. Cách thu hút đầu tư nằm ở mấu chốt là nhà đầu tư chỉ lo được tối đa 30% vốn chủ sở hữu, còn lại 70% của 70-80 tỷ USD đó (nếu tôi tính chưa chuẩn thì xin chỉnh lại), phải huy động từ các định chế tài chính và thị trường vốn thế giới. Nếu các định chế tài chính thế giới không hài lòng với vấn đề giải quyết được việc chia sẻ rủi ro, thì triển vọng thu hút đủ tài chính cho đầu tư sẽ nằm ngoài mong muốn chủ quan của nước chủ nhà và nhà đầu tư. Số tiền 50-60 tỷ USD còn lại hoàn toàn phụ thuộc vào việc chúng ta có thỏa mãn yêu cầu chia sẻ rủi ro của các định chế tài chính đó hay không.
Mục tiêu của quỹ dự trữ ngoại tệ là để duy trì ổn định các mặt hàng thiết yếu cho nền kinh tế, điện là mặt hàng thiết yếu nhưng suốt 5-6 năm nay, chúng ta chưa giải quyết được vấn đề này. Tiếp đó, cần bảo đảm thanh toán cho nhà đầu tư và nhà tài trợ vốn vay để họ có nguồn thu trở về. Nếu một thời điểm nào đó, bên mua điện duy nhất là EVN (doanh nghiệp nhà nước) không trả được tiền vì lý do nào đó, thì phải có người trả thay, nếu không thì nhà đầu tư sẽ phá sản.
Những rủi ro này không phải do nhà đầu tư tạo ra, mà chỉ mang tính dự phòng. Nếu quản lý nhà nước tốt, có cơ chế chính sách tốt, những rủi ro đó không xảy ra, thì chúng ta không phải thực hiện cam kết đó. Điều này đã xảy ra với các dự án BOT trước đây, như nhiệt điện ở Đồng Nai, sau 25 năm, Chính phủ chưa bao giờ phải thực hiện nghĩa vụ cam kết. Như vậy, những cam kết đó chỉ mang tính dự phòng”.

“Theo tinh thần của Quy hoạch điện 8 điều chỉnh, Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, hướng đến tỷ lệ chiếm 45% (chưa tính thủy điện) trong tổng công suất lắp đặt của toàn ngành điện vào năm 2030.
Đối với phía nhà đầu tư, thì mục tiêu này rất đẹp, rất rộng mở. Với tính toán từ nay đến năm 2030 sẽ có ít nhất khoảng 400 dự án điện gió và 600 dự án điện mặt trời sẽ được xây dựng mới. Con số này, tôi nghĩ thực hiện trong 5 năm thì cũng đủ “chóng mặt”.
Để đạt được mục tiêu này, cần phải có khung pháp lý rõ ràng, phải có sự hướng dẫn tích cực từ các cơ quan Nhà nước đến các tỉnh, thành phố. Phải làm sao để các nhà đầu tư chỉ cần thực hiện công việc đầu tư thôi, không mất công chạy đi tìm hiểu các quy định, thủ tục nào phải làm trước, thủ tục nào phải đi sau.
Từ đầu năm 2025 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 3 nghị định mới thay thế những nghị định hướng dẫn thi hành Luật Điện lực. Đó là: Nghị định 56/2025/NĐ-CP hướng dẫn về quy hoạch điện, phương án phát triển mạng lưới cấp điện, đầu tư xây dựng dự án điện lực và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án kinh doanh điện lực; Nghị định 57/2025/NĐ-CP quy định về cơ chế mua bán điện trực tiếp (thay thế Nghị định 80/2024/NĐ-CP); Nghị 58/2025/NĐ-CP quy định về phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới.
Năm 2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định 80/2024/NĐ-CP về cơ chế mua bán điện trực tiếp, nhưng việc thi hành gặp rất nhiều vướng mắc. Nghị định 57/2025/NĐ-CP cho thấy tinh thần đồng hành giữa cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp, đã tạo ra cơ hội cho bên thứ ba có thể đầu tư vào dự án điện mặt trời áp mái tại các khu công nghiệp, sau đó bán điện cho chính các doanh nghiệp tại khu công nghiệp đó.
Với các Nghị định mới ban hành, các nhà đầu tư đã thấy rất thông thoáng, chỉ còn một vấn đề băn khoăn là làm sao có thể thu xếp được vốn. Trong các Nghị định này có đưa ra cơ chế khi đầu tư xây dựng dự án điện, vốn điều lệ của chủ đầu tư phải chiếm 30%, còn lại 70% có thể vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên, hiện trên thị trường, ngân hàng vẫn chưa hiểu rõ các cơ chế và mô hình mà các Nghị định đưa ra.
Một vấn đề nữa, các ngân hàng sẽ nhìn lại các dự án đầu tư trước đây và bây giờ có bị rủi ro hay không. Thời gian vừa qua, 173 dự án năng lượng tái tạo gặp phải vướng mắc trong việc thực hiện giá FIT (giá ưu đãi), chậm thực hiện giá FIT. Hiện, nhiều dự án cũng đang bị thanh tra. Vấn đề này đang khiến các nhà đầu tư và ngân hàng lo lắng nếu dự án đang đầu tư xây dựng mà có những quy định mới hay thay đổi chính sách, sẽ làm ảnh hưởng tới các dự án được đưa vào vận hành”.

“Làm thế nào để thực hiện chuyển dịch năng lượng mà vẫn đảm bảo nền kinh tế phát triển, chi phí năng lượng không quá cao, đồng thời đáp ứng được các tiêu chí về môi trường? Đây là câu hỏi lớn mà nhiều quốc gia trên thế giới đang tìm cách giải quyết. Trên thực tế, chuyển dịch năng lượng đã được xác định qua các hướng đi rõ ràng, như: tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Mục tiêu là giảm cường độ năng lượng và cường độ phát thải trên mỗi đơn vị sản phẩm, hay mỗi đồng USD trong GDP.
Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức trong việc phát triển các nguồn năng lượng mới, như hydrogen xanh, amoniac xanh, hay việc lưu trữ và sử dụng CO2 tách ra từ các quá trình phát thải.
Điều chỉnh Quy hoạch điện 8 đã nhấn mạnh việc đảm bảo nguồn năng lượng nền ổn định. Việc chuyển dịch năng lượng cần phải đảm bảo tính ổn định trong cung cấp, đồng thời giữ chi phí năng lượng ở mức hợp lý để doanh nghiệp và người dân có thể chấp nhận.
Điện hạt nhân, với công nghệ mạnh mẽ, sẽ đóng vai trò quan trọng trong thời gian tới. Tuy nhiên, từ nay đến năm 2050, chúng ta vẫn phải duy trì các nguồn điện nền khác như nhiệt điện than và khí, nhưng cần sử dụng hiệu quả hơn và phải đầu tư công nghệ giảm phát thải cho nhiệt điện than. Cần chú trọng ứng dụng công nghệ mới để giảm phát thải trong các nhà máy nhiệt điện than và nghiên cứu chuyển đổi nhiên liệu trong các nhà máy nhiệt điện, với công nghệ đồng đốt amoniac. Tuy nhiên, quá trình này có thể cần đến sau năm 2035-2040 để thực hiện.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo xây dựng Luật Sử dụng năng lượng hiệu quả, yêu cầu Bộ Công Thương tiếp tục rà soát và điều chỉnh lại luật này, bao quát tất cả các khâu từ nguồn điện, truyền tải, phân phối, tiêu dùng cho đến giá điện.
Về phía các hộ sử dụng năng lượng cuối cùng, đây cũng là điểm nghẽn lớn. Các doanh nghiệp cần coi chỉ tiêu tiêu thụ năng lượng là một chỉ số kỹ thuật quan trọng. Trong Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, dự kiến được thông qua vào tháng 5/2025, sẽ đề xuất thành lập một quỹ cho việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Trước đây, chúng ta chỉ tập trung vào các giải pháp đơn giản như tắt đèn hay vận hành tiết kiệm, nhưng việc giảm chi phí năng lượng tiêu hao trên mỗi đơn vị sản phẩm cần phải đi kèm với việc chuyển đổi công nghệ và điều này đòi hỏi đầu tư. Luật này sẽ có các điều khoản về việc xây dựng quỹ đầu tư cho năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Quan trọng hơn, chúng ta cần xây dựng ý thức cộng đồng và khuyến khích đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng để thực hiện chuyển dịch năng lượng thành công”.

“So với Quy hoạch Điện 8 hiện tại, kịch bản nhu cầu cao trong đề xuất điều chỉnh Quy hoạch Điện 8 (bản dự thảo được đăng tải để lấy ý kiến vào đầu tháng 2/2025) cần tăng nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn từ nay đến năm 2030.
Nhóm Công tác Điện và Năng lượng thuộc Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, đại diện cho 14 hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, hoàn toàn ủng hộ việc tăng công suất điện mặt trời, không chỉ phục vụ nhu cầu tự sản xuất, tự tiêu thụ mà còn có thể phục vụ cho khách hàng sử dụng điện lớn tham gia vào cơ chế DPPA (Cơ chế mua bán điện trực tiếp). Các giải pháp ngắn hạn như vậy là cần thiết, để bổ sung công suất nguồn điện nằm gần phụ tải và giảm tình trạng quá tải lưới điện.
Trong quá trình tham vấn với Bộ Công Thương và Chính phủ khi xây dựng dự thảo Nghị định về cơ chế DPPA, chúng tôi đã bày tỏ quan điểm ủng hộ việc ban hành sớm Nghị định và nhấn mạnh sự cần thiết của việc tiếp tục hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình thực thi Nghị định để có thể kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh.
Chúng tôi đánh giá cao việc các ý kiến từ các bên liên quan đã được xem xét trong Nghị định 57/2025/NĐ-CP mới ban hành về cơ chế DPPA. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi việc triển khai Nghị định này và hỗ trợ Bộ Công Thương trong quá trình thực hiện bốn Nghị định khác vừa mới được ban hành nhằm hướng dẫn Luật Điện lực 2024.
Quá trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam đang ở một giai đoạn quan trọng, những tiến bộ về khung pháp lý gần đây là những bước tiến đáng kể. Cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài tiếp tục cam kết đồng hành cùng Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu năng lượng, hướng tới nguồn điện ổn định, bền vững với giá cả hợp lý.
Để hiện thực hóa tham vọng này, chúng ta cần tiếp tục thúc đẩy đối thoại, cải thiện chính sách và đảm bảo thực thi hiệu quả. Tất cả các lĩnh vực phát triển đều cần năng lượng, bằng cách hợp tác giữa Chính phủ, doanh nghiệp và các bên liên quan, chúng ta có thể xây dựng một ngành điện vững chắc, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người”.

“Năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách pháp luật phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021.
Qua giám sát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 937/NQ-UBTVQH15 trong đó làm rõ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, bất cập; đồng thời chỉ ra nguyên nhân, trách nhiệm, đề ra các giải pháp tập trung phát triển năng lượng giai đoạn tới. Các giải pháp này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực chính sách, các nội dung phải hoàn thành trước năm 2025 cũng như cho giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn năm 2045…
Ngày 25/11/2024, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thống nhất chủ trương tái khởi động Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Ngày 30/11/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết kỳ họp thứ 8, trong đó có nội dung đồng ý tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Tại kỳ họp bất thường vừa qua, Quốc hội thông qua nghị quyết về một số cơ chế chính sách đặc biệt để đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, có nhiều nội dung quan trọng nhằm rút ngắn thời gian triển khai dự án.
Điện hạt nhân có một số điểm quan trọng, sẽ là điện nền để Việt Nam tiếp tục phát triển năng lượng tái tạo. Đây cũng là nguồn năng lượng sạch, giúp giảm phát thải. Việc phát triển năng lượng hạt nhân sẽ tạo nền tảng khoa học công nghệ để đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình.
Theo tôi trong thời gian tới sẽ phải tập trung vào một số vấn đề.
Thứ nhất, Bộ Chính trị đang chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việc sơ kết thực hiện Nghị quyết để tiếp tục đưa ra các định hướng, điều chỉnh chiến lược cho giai đoạn tới, kỷ nguyên mới là rất quan trọng.
Thứ hai, tại kỳ họp thứ 9 sắp tới, Quốc hội xem xét một số luật liên quan trực tiếp đến năng lượng như Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi. Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo luật nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.
Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, cũng có một số chính sách khuyến khích phát triển năng lượng xanh, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Ngoài ra Luật Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo cũng sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 tới đây. Đây là một trong những luật triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Việc ban hành luật được kỳ vọng tạo khuôn khổ pháp lý mới, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển các ngành công nghệ mới, hướng tới phát triển bền vững.
Quốc hội cũng đang chỉ đạo, triển khai thực hiện giám sát tối cao việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường từ khi Luật Bảo vệ môi trường 2020 có hiệu lực thi hành”.

“Ngay từ giai đoạn đầu của việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời, tình trạng lưới điện không đủ khả năng truyền tải năng lượng từ các dự án mới đã là một vấn đề khó khăn của Việt Nam.
Mới đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tham dự lễ khởi công xây dựng đường dây 500 kV Lào Cai - Vĩnh Yên và yêu cầu phải hoàn thành dự án này ngay trong năm nay. Mặc dù Việt Nam đang liên tục xây dựng và đưa vào hoạt động các đường dây truyền tải điện cao áp, nhưng việc truyền tải điện từ các dự án năng lượng tái tạo vẫn gặp khó khăn.
Việt Nam đang phát triển mô hình năng lượng theo hướng đúng đắn - sử dụng điện hạt nhân làm nền tảng và được bổ trợ bởi năng lượng tái tạo, từ góc nhìn của một nhà cung cấp thiết bị lớn trên thế giới, Hitachi Energy nhận định rằng Việt Nam sẽ gặp khó khăn, do khoản thời gian triển khai các dự án trên theo các kế hoạch của Chính phủ đang quá ngắn. Vì vậy, nếu Việt Nam muốn tăng đáng kể công suất điện gió và điện mặt trời trong những năm tới, thì các quyết định đầu tư cho cơ sở hạ tầng cần phải được diễn ra càng sớm càng tốt.
Không giống với mạng lưới điện tại các quốc gia khác đang trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, Việt Nam đang thiếu hụt các thiết bị chuyên dụng để bù đắp cho tính bất ổn của điện tái tạo, các cơ sở lưu trữ năng lượng tái tạo cũng như thiếu sự kết nối trong mạng lưới điện để phục vụ cho hoạt động mua bán năng lượng.
Mặc dù Việt Nam đang xây dựng các đường dây để phục vụ cho mua bán điện với Lào và Trung Quốc, song quá trình đầu tư cho các cơ sở hạ tầng này cần được đẩy mạnh. Quyết định đầu tư gần 15 tỷ USD cho mạng lưới điện trong 5 năm tới của Chính phủ sẽ giúp ích cho quá trình này”.

“Tôi đã tham gia vào quá trình xây dựng các nhà máy điện hạt nhân từ năm 2000. Lúc đó, mục tiêu của Hàn Quốc là tham gia vào thị trường điện hạt nhân toàn cầu từ năm 2012. Năm 2009, Tổng thống Hàn Quốc đã làm việc trực tiếp với lãnh đạo Các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất (UAE). Lúc đó hai lãnh đạo đã thống nhất ý kiến rằng Hàn Quốc sẽ xây dựng các nhà máy điện cho UAE. Dự án này được khởi công vào cuối năm 2011 và bàn giao lò phản ứng đầu tiên có công suất 1.400 MW vào năm 2018.
Đến nay thì cả bốn lò phản ứng đã đi vào hoạt động với tổng công suất 5.600 MW. Đây là mức gần như tương đương với công suất mục tiêu đạt 6.000 – 6.400 MW được Việt Nam đưa ra trong Quy hoạch điện 8 điều chỉnh. Một quốc gia chuyên xuất khẩu dầu mỏ đã lựa chọn xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cho thấy đây là một công nghệ hiện đại, an toàn. Các doanh nghiệp Hàn Quốc đánh giá rất cao quyết tâm lựa chọn phát triển năng lượng hạt nhân của lãnh đạo Việt Nam.
Tại Hội nghị COP26, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết rằng Việt Nam sẽ đạt Net Zero vào năm 2050. Việt Nam rất khó thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 nếu không đầu tư phát triển điện hạt nhân. Bên cạnh đó, các ngành công nghệ cao như bán dẫn và trí tuệ nhân tạo mà Việt Nam muốn tập trung phát triển đòi hỏi Việt Nam phải tăng đáng kể công suất phát điện.
Dù quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân được đưa ra hơi muộn, nhưng việc lựa chọn đối tác đúng đắn sẽ giúp Việt Nam đạt được những mục tiêu về phát triển điện hạt nhân của mình. Nếu được lựa chọn, các doanh nghiệp Hàn Quốc sẵn sàng và rất tự tin sẽ có thể giúp Việt Nam phát triển ngành điện hạt nhân với giá cả hợp lý và độ tin cậy cao. Năm 2024, Hàn Quốc đã ký hợp đồng hợp tác với Cộng hòa Séc để xây dựng 2 nhà máy điện hạt nhân giống như nhà máy đã được xây dựng tại UAE.
Mặc dù vậy, khi đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo của Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài nói chung và Hàn Quốc nói riêng đều quan tâm đến khả năng sinh lời của dự án. Do mỗi dự án năng lượng đều cần vốn đầu tư lên tới hàng tỷ USD, các doanh nghiệp cần phải nhận được những hỗ trợ về tài chính thông qua sự bảo lãnh từ chính phủ. Dù Chính phủ Việt Nam đã có sự nỗ lực hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài trong vấn đề này, các doanh nghiệp Hàn Quốc hy vọng sự hỗ trợ này sẽ được mở rộng và được áp dụng kịp thời”.

“Việt Nam đã có nhiều bước tiến mạnh mẽ và tích cực trong 12 tháng qua khi ban hành, thông qua các luật, quy định và cơ chế phát triển ngành năng lượng trong nước. Trong đó, đáng chú ý là Luật Điện lực sửa đổi được thông qua vào tháng 11/2024 và một số nghị định khác đang được triển khai trong năm nay. Những quy định này sẽ giúp tạo tiền đề phát triển ngành năng lượng Việt Nam trong tương lai bao gồm cả năng lượng tái tạo khi đem lại sự an tâm cho các nhà đầu tư, nhà phát triển dự án năng lượng và nhà cung cấp điện.
Hoạt động đầu tư vào lĩnh vực năng lượng luôn có rủi ro, nhưng quan trọng là những rủi ro đó cần phải được chia sẻ giữa các nhà đầu tư - những người đã bỏ nguồn vốn lớn vào các dự án và Chính phủ. Bên cạnh chia sẻ rủi ro, cả hai bên cũng phải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp để giảm thiểu rủi ro đối với các dự án năng lượng.
Sau khi đã thông qua những quy định nền tảng, giờ đây chúng ta cần phải tập trung áp dụng những quy định này để cải thiện hiệu quả và giải quyết điểm nghẽn trong hoạt động cấp giấy phép, cấp vốn đầu tư, xây dựng và thực hiện các dự án năng lượng tại Việt Nam.
Việt Nam cũng cần phải chuẩn bị đầy đủ hạ tầng lưới điện để phục vụ cho những dự án năng lượng đã và sắp được triển khai. Một hạ tầng vững chắc và ổn định sẽ tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư, thuyết phục họ bỏ vốn vào các dự án năng lượng ở Việt Nam.
Bên cạnh việc chuẩn bị nền tảng cho các dự án điện, Việt Nam cũng cần phải thông qua những cơ chế hợp lý để đảm bảo các nhà sản xuất điện có thể tạo ra lợi nhuận từ hoạt động của mình. Một trong những quy định quan trọng để phục vụ cho mục đích này chính là cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA). Theo cơ chế này, hoạt động mua bán điện trực tiếp theo hợp đồng giữa nhà sản xuất điện tái tạo và doanh nghiệp tiêu thụ thông qua đường dây riêng đã được quy định rõ ràng, nâng cao niềm tin kinh doanh cho các nhà sản xuất điện.
Tuy nhiên, việc mua bán điện gián tiếp thông qua đường dây của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi nhà sản xuất và người tiêu thụ nằm cách xa nhau vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề khiến cả người mua và người bán điện băn khoăn. Theo đó, các nhà sản xuất khi muốn bán điện gián tiếp cho người tiêu thụ thông qua đường dây của EVN vẫn bị yêu cầu phải ký hợp đồng mua bán điện với doanh nghiệp này”.

VnEconomy 09/04/2025 14:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 14-2025 phát hành ngày 7/4/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1308
