“Tôi cho rằng cơ hội chủ yếu thuộc về hai nhóm. Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp phát thải lớn nhưng đã tiên phong cắt giảm khí nhà kính trong sản xuất để giảm chi phí tuân thủ. Các doanh nghiệp này được Chính phủ cấp một lượng hạn ngạch phát thải nhất định. Nếu lượng phát thải thực tế vượt quá lượng hạn ngạch được phân bổ, doanh nghiệp sẽ phải mua thêm hạn ngạch phát thải hoặc tín chỉ carbon để bù đắp.

Ngược lại, nếu doanh nghiệp triển khai các giải pháp giảm phát thải và mức phát thải của họ thấp hơn mức hạn ngạch được phân bổ, họ có quyền đem lượng hạn ngạch dư thừa đi bán trên thị trường. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đạt được lợi ích kép, vừa giảm chi phí tuân thủ, vừa có thêm doanh thu tài chính. Ví dụ kinh điển cho trường hợp này là Tesla, khi chỉ riêng trong năm 2024, đã thu về 2,8 tỷ USD từ việc bán Tín chỉ xe không phát thải (có tính chất tương tự như hạn ngạch phát thải).

Nhóm thứ hai là các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển dự án tín chỉ carbon. Cơ hội này đến từ nhiều ý tưởng đa dạng, từ các công nghệ phức tạp như sản xuất năng lượng tái tạo, thu giữ carbon trong khí quyển, đến những giải pháp gần gũi với nông nghiệp như canh tác lúa phát thải thấp hay cải thiện thức ăn chăn nuôi. Thậm chí gần đây, chúng tôi đang tư vấn cho một doanh nghiệp với ý tưởng tạo tín chỉ carbon từ việc nuôi ruồi…

Nhờ nguồn tài chính từ thị trường carbon, những ý tưởng tưởng chừng khó khả thi này lại có cơ hội trở thành hiện thực.

Từ kinh nghiệm của quốc tế, những doanh nghiệp sớm tiên phong chính là những người đạt được nhiều lợi ích nhất từ thị trường carbon. Để tham gia thị trường carbon một cách vững vàng và tận dụng tốt các cơ hội, theo tôi, doanh nghiệp trước hết cần hiểu đúng và đầy đủ về cơ chế vận hành của thị trường này. Tránh rơi vào tâm lý quá lạc quan, nhưng cũng không nên hoài nghi cực đoan.

Các công việc như giảm phát thải tại nhà máy hay phát triển dự án tín chỉ carbon đều đòi hỏi chuyên môn cao và quy trình phức tạp. Vì vậy doanh nghiệp cần có đội ngũ nhân sự đủ năng lực chuyên môn để đảm nhiệm.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược giảm phát thải phù hợp, bắt đầu từ việc đánh giá hiện trạng phát thải, xác định các “điểm nóng” trong dây chuyền sản xuất và tìm giải pháp giảm thiểu. Đôi khi, nhiều triệu đô la lại nằm ẩn trong chính những phế phẩm từ hoạt động sản xuất của công ty.

Hiện nay, nhiều đơn vị đã chủ động nghiên cứu tính khả thi và triển khai thí điểm các dự án tín chỉ carbon, nhưng phần lớn vẫn tham chiếu theo các tiêu chuẩn quốc tế như Verra hay Gold Standard…

Vì vậy, tôi kỳ vọng cơ quan quản lý tại Việt Nam sớm ban hành bộ tiêu chuẩn và các phương pháp luận tạo tín chỉ để các chủ đầu tư có cơ sở triển khai. Đồng thời, để tránh “thiết kế lại bánh xe”, chúng ta hoàn toàn có thể công nhận ngay các tiêu chuẩn và phương pháp luận quốc tế đã được áp dụng rộng rãi, tương tự cách Chính phủ Indonesia đã thực hiện”.

“Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển các dự án giảm phát thải carbon, nhờ vào đặc điểm tự nhiên và cơ cấu kinh tế. Đặc biệt, trong lĩnh vực lâm nghiệp, độ che phủ rừng của Việt Nam hiện đạt trên 42%, tương đương gần 15 triệu ha rừng. Điều này tạo thuận lợi để triển khai các dự án như REDD+ (giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng) hoặc trồng rừng mới.

Điển hình, năm 2023, Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng cho Ngân hàng Thế giới, thu về hơn 51 triệu USD, cho thấy tiềm năng tài chính rất lớn từ nguồn tài nguyên này.

Trong nông nghiệp, Việt Nam đang thí điểm mô hình canh tác lúa phát thải thấp trên quy mô lớn, đặc biệt tại Đồng bằng sông Cửu Long. Các kỹ thuật như tưới ngắt quãng (AWD), sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và tối ưu hóa phân bón giúp giảm đáng kể phát thải khí methane - một loại khí nhà kính có tác động mạnh gấp 25 lần CO2.

Ngoài ra, xử lý chất thải rắn cũng là một lĩnh vực quan trọng. Các dự án waste-to-energy (biến rác thành điện) hoặc sản xuất biogas từ rác hữu cơ vừa góp phần giảm ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra tín chỉ carbon có thể giao dịch trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tôi cho rằng thị trường carbon đóng vai trò như một cơ chế tài chính bổ sung, giúp huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, đặc biệt từ khu vực tư nhân và quốc tế. Với việc hình thành thị trường tín chỉ carbon tự nguyện và chuẩn bị triển khai thị trường carbon bắt buộc (ETS), Việt Nam đang mở ra một kênh đầu tư mới cho các dự án giảm phát thải.

Theo ước tính của các tổ chức quốc tế, thị trường carbon tại Việt Nam có thể đạt quy mô từ 0,5 - 1,2 tỷ USD vào năm 2030, với tiềm năng giảm từ 146 - 167 triệu tấn CO2 mỗi năm.

Đối với doanh nghiệp, tham gia thị trường carbon không chỉ là cách để giảm chi phí tuân thủ môi trường, mà còn là cơ hội tiếp cận tài chính xanh, cải thiện hình ảnh thương hiệu và đáp ứng các tiêu chuẩn ESG ngày càng khắt khe trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Để doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội từ thị trường carbon, cần đồng thời thực hiện 3 nhóm giải pháp quan trọng.

Thứ nhất, doanh nghiệp cần chủ động kiểm kê phát thải khí nhà kính, xây dựng chiến lược giảm phát thải dài hạn và lựa chọn mô hình phù hợp để tạo ra tín chỉ carbon có thể giao dịch. Đây là bước nền quan trọng để chuẩn bị tham gia thị trường carbon bắt buộc từ năm 2025.

Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định liên quan đến đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV), quyền sở hữu tín chỉ carbon, cơ chế phân bổ hạn ngạch và đấu giá, cũng như xử lý tranh chấp và vi phạm.

Thứ ba, cần sớm thiết lập sàn giao dịch tín chỉ carbon quốc gia, tạo một thị trường minh bạch, dễ tiếp cận cho tất cả doanh nghiệp. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, bao gồm: tín dụng xanh, đào tạo kỹ thuật, tiếp cận quỹ đầu tư khí hậu như Quỹ Khí hậu xanh (GCF), JETP, hoặc vốn từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á.

Tôi cho rằng nếu các giải pháp này được thực thi đồng bộ, thị trường carbon sẽ trở thành công cụ chiến lược, giúp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu Net Zero, vừa tạo ra động lực tăng trưởng xanh cho toàn nền kinh tế”.

“Việt Nam đang đạt được những tiến bộ trong chiến lược phát triển thị trường carbon, trọng tâm của mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Cách tiếp cận theo từng giai đoạn của Chính phủ bắt đầu với Quyết định số 232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, vạch ra lộ trình từ thí điểm sàn giao dịch carbon vào năm 2025 đến vận hành chính thức vào năm 2029. Việc triển khai từng bước này cho phép có thời gian để xây dựng năng lực thể chế và hoàn thiện các cơ chế.

Hỗ trợ cho tầm nhìn này là một khuôn khổ pháp lý vững chắc. Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Nghị định số 119/2025/NĐ-CP thiết lập cơ sở pháp lý cho hệ thống giao dịch phát thải và tín chỉ carbon, giúp Việt Nam phát triển thị trường carbon phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.

Bên cạnh đó là Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg về hệ thống phân loại xanh của Việt Nam. Có hiệu lực từ tháng 8/2025, hệ thống này xác định các tiêu chí môi trường trên bảy lĩnh vực và thiết lập một hệ thống xác minh, tăng cường tính minh bạch và niềm tin của nhà đầu tư, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra tín chỉ carbon và tiếp cận tài chính xanh.

Cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ chính sách, Việt Nam đang triển khai các biện pháp: thiết lập sàn giao dịch carbon quốc gia thông qua Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, xây dựng hệ thống đăng ký, đồng thời cung cấp đào tạo và ưu đãi cho doanh nghiệp áp dụng các biện pháp phát thải thấp. Hợp tác quốc tế và sự tham gia của khu vực tư nhân cũng được khuyến khích để hỗ trợ các nền tảng tín chỉ carbon và các dự án sinh thái.

Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt là về hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV), thanh khoản thị trường và mức độ sẵn sàng của khu vực tư nhân, nhưng sự phát triển thị trường carbon của Việt Nam là rất triển vọng, có cấu trúc tốt và đang trên đà phát triển. Chiến lược tổng thể của Chính phủ phản ánh vai trò lãnh đạo mạnh mẽ về khí hậu và tầm nhìn dài hạn.

Việc thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân vào thị trường carbon đòi hỏi sự kết hợp chiến lược giữa chính sách trong nước và các thông lệ quốc tế tốt nhất. Trước hết, việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý rõ ràng và có tính thích ứng là nền tảng cơ bản. Ví dụ quốc tế cho thấy các quy tắc minh bạch và có thể thực thi phù hợp với các tiêu chuẩn toàn cầu như Điều 6 Thỏa thuận Paris sẽ xây dựng niềm tin của nhà đầu tư và uy tín thị trường. Các nghị định và chương trình thí điểm gần đây của Chính phủ là những bước đi tích cực, nhưng việc thực thi nhất quán và minh bạch là rất quan trọng.

Ngoài ra, việc xây dựng năng lực đóng vai trò then chốt. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn thiếu chuyên môn kỹ thuật để tham gia hiệu quả. Kinh nghiệm quốc tế nhấn mạnh giá trị của các chương trình đào tạo có mục tiêu và sự tham gia của các bên liên quan để thu hẹp khoảng cách này.

Điều quan trọng không kém là sự phối hợp về thể chế. Thị trường carbon thành công phụ thuộc vào sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ ngành, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính và Bộ Ngoại giao để đảm bảo tính nhất quán về chính sách và tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch quốc tế.

Việt Nam nên tận dụng các tiêu chuẩn quốc tế và hệ thống xác minh để xây dựng lòng tin và đảm bảo chất lượng. Việc giám sát, báo cáo và xác nhận của bên thứ ba một cách hiệu quả là rất quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài.

Bằng cách giải quyết những vấn đề này, Việt Nam có thể khơi dậy sự đổi mới của khu vực tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng xanh và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp”.

“Chính phủ Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến trong thúc đẩy thị trường carbon, đặc biệt sau cam kết đạt NetZero vào năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính công bố tại COP26. Từ đó đến nay, khung pháp lý liên tục được hoàn thiện, trong đó nổi bật là Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Nghị định 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nhiều quy định quan trọng như tăng giới hạn bù trừ lên 30% thay vì 10% trước đây, mở rộng đối tượng tham gia thị trường, và quy định rõ các loại dự án bù trừ đủ điều kiện.

Song song đó, Chính phủ đã công bố danh sách hơn 2.000 đơn vị phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính – lực lượng nòng cốt của thị trường carbon bắt buộc. Đầu năm 2025, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển thị trường carbon với lộ trình 3 giai đoạn, hướng tới vận hành chính thức toàn quốc từ năm 2029.

Bên cạnh việc ban hành quy định, các cơ quan quản lý cũng tích cực triển khai các chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực cho doanh nghiệp thuộc đối tượng tham gia. Các khóa học tập trung vào hướng dẫn kiểm kê khí nhà kính và giúp doanh nghiệp hiểu rõ cơ chế vận hành thị trường.

Để thị trường carbon đi vào vận hành hiệu quả, cần sớm hình thành hàng hóa carbon với tính thanh khoản cao, qua đó thu hút sự tham gia đa dạng từ người mua, người bán đến các bên liên quan khác. Điều này đòi hỏi tiến độ hoàn thiện khung pháp lý và hạ tầng kỹ thuật phải được đẩy nhanh, đồng thời có cơ chế rõ ràng để khuyến khích khu vực tư nhân và các tổ chức tài chính tham gia. Việc nâng cao năng lực đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV) cho doanh nghiệp cũng cần được ưu tiên, nhằm bảo đảm thị trường vận hành minh bạch và hiệu quả.

Chúng tôi kỳ vọng Chính phủ sẽ quyết liệt hơn trong thực thi các mốc thời gian đã đề ra, giúp Việt Nam nhanh chóng đưa thị trường carbon vào hoạt động và tận dụng cơ hội từ xu hướng giảm phát thải toàn cầu.

Hàng hóa là yếu tố then chốt của một thị trường, và đối với thị trường carbon Việt Nam, hai loại hàng hóa chính sẽ được lưu hành là hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon. Trong giai đoạn đầu, khi hạn ngạch vẫn được phân bổ miễn phí, tín chỉ carbon sẽ là loại hàng hóa linh hoạt hơn cho khu vực tư nhân tham gia giao dịch.

Ưu tiên trước hết là thúc đẩy các dự án tạo ra tín chỉ carbon chất lượng cao. Hiện tại, do chưa có khung pháp lý và tiêu chuẩn trong nước, các dự án cần tạm thời áp dụng tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng yêu cầu thị trường và thu hút người mua. Song song đó, cần đẩy nhanh ban hành tiêu chuẩn quốc gia và quy trình phê duyệt dự án carbon, đồng thời xây dựng đội ngũ thẩm định và phê duyệt trong nước nhằm giảm chi phí xác nhận và nâng cao sức cạnh tranh của tín chỉ carbon Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần tăng tính thanh khoản bằng cách mở rộng các thỏa thuận hợp tác quốc tế để giao dịch tín chỉ theo Điều 6.2 và 6.4 của Thỏa thuận Paris. Việc nhanh chóng ký kết và triển khai kế hoạch hành động với các quốc gia như Singapore, Thụy Sỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ giúp mở rộng mạng lưới người mua, gia tăng nhu cầu và nâng giá trị tín chỉ carbon”.

“Thị trường carbon có hai loại là thị trường tuân thủ (chịu sự quản lý của Chính phủ) và thị trường tự nguyện.

Thị trường carbon ở Việt Nam trước đây chủ yếu là thị trường tuân thủ theo Cơ chế phát triển sạch (CDM). Để phát triển thị trường carbon, điều quan trọng nhất cần tìm kiếm được người mua (cầu). Việt Nam có hơn 270 dự án CDM được đăng ký thành công nhưng chỉ có khoảng 80 dự án có giao dịch, trong đó chỉ có một số dự án bán tín chỉ được nhiều lần trong kỳ tín dụng. Tỷ lệ giao dịch thành công thấp khoảng 30% chủ yếu là do các dự án không có được người mua uy tín.

Thị trường CDM bùng nổ trong giai đoạn 2007-2011, có thời điểm giá tín chỉ đạt trên 25 USD/tín chỉ nhưng sau giai đoạn cam kết thứ nhất của Nghị định thư Kytoto (31/12/2012) đã giảm mạnh, có lúc chỉ còn 0,15 USD/tín chỉ, chưa đủ chi phí để phát triển và ban hành ra các tín chỉ carbon.

Với thị trường tự nguyện, các dự án tín chỉ carbon được phát triển và đăng ký theo các cơ chế như Tiêu chuẩn vàng (GS), Tiêu chuẩn carbon được thẩm tra (VCS) và gần đây là Hội đồng carbon toàn cầu (GCC). Thị trường carbon tự nguyện phát triển từ sau năm 2012. Đến nay, Việt Nam có trên 120 dự án đã đăng ký thành công theo các tiêu chuẩn tự nguyện này. Trong đó, khoảng 70% số dự án đã giao dịch thành công tín chỉ carbon, tỷ lệ giao dịch thành công khá ấn tượng, nhất là khi so sánh với thị trường tuân thủ. 

Mặc dù số lượng dự án, hoạt động có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính ở trong nước khá lớn, nhưng để phát triển thành dự án tín chỉ carbon là không hề đơn giản. Hiện nay, các tiêu chí đăng ký dự án rất chặt chẽ, yêu cầu chứng minh tính bổ sung về giảm phát thải, cân nhắc sớm về lợi ích từ tín chỉ carbon, các dự án phải gặp khó khăn về tài chính hoặc các rào cản kỹ thuật, chứng minh dự án không có tính phổ biến... Do đó, số lượng dự án đăng ký thành công cũng như lượng tín chỉ carbon được ban hành cho Việt Nam chưa nhiều.

Khó khăn lớn nhất của các chủ dự án hiện nay là không tìm được người mua uy tín. Điều này dẫn đến tình trạng rất nhiều dự án đã đăng ký thành công nhưng không được thẩm tra để ban hành tín chỉ carbon hoặc hàng hóa (tín chỉ) đã được ban hành nhưng không biết bán cho ai.

Quy định của các cơ chế tạo tín chỉ carbon ngày càng chặt chẽ. Trước đây các dự án năng lượng tái tạo có thể phát triển và đăng ký tín chỉ carbon, nhưng hiện nay một số cơ chế đã thắt chặt hơn như VCS đã loại bỏ năng lượng tái tạo như thủy điện, điện mặt trời, điện gió,… còn GS chỉ chấp nhận đăng ký với những dự án điện tái tạo mà loại hình đó dưới 5% tổng công suất lắp đặt của toàn hệ thống.

Do đó, các đơn vị triển khai dự án ở Việt Nam sẽ phải chuyển sang các loại hình khác như: trồng rừng, tưới khô, ướt xen kẽ, bếp đun cải tiến, máy lọc nước… các dự án mang tính xã hội. Tuy nhiên, khi phát triển các dự án mang tính xã hội thì chi phí phát triển, thẩm định, thẩm tra, giám sát và quản lý dự án carbon rất lớn nhưng lượng tín chỉ đạt được khá thấp, nên lợi nhuận từ tín chỉ carbon thấp.

Tôi cho rằng tiềm năng phát triển và ban hành tín chỉ carbon mới sẽ ngày càng hẹp hơn. Với các công nghệ mới như thu hồi, lưu trữ carbon đòi hỏi chi phí đầu tư cao. Hoặc lĩnh vực năng lượng phải chuyển sang hydrogen lại đắt, còn các dự án điện gió ngoài khơi thì suất đầu tư rất cao. Do chi phí cao nên số lượng dự án có thể thực hiện được sẽ rất ít, dẫn đến tiềm năng tín chỉ sẽ không còn nhiều.

Với dự án tín chỉ từ rừng, tiêu chí với rừng trồng mới cũng đòi hỏi yêu cầu rất khắt khe, chặt chẽ hơn nên tiềm năng tạo tín chỉ không lớn. Đặc biệt với các dự án tín chỉ carbon đều yêu cầu rất chặt chẽ về chứng minh tính bổ sung.

Mặc dù vậy, tiềm lực để thúc đẩy phát triển thị trường, dự án carbon nằm ở khối doanh nghiệp tư nhân vẫn là rất lớn. Các doanh nghiệp khi thấy rõ được lợi ích từ dự án tín chỉ carbon sẽ chủ động tham gia triển khai thực hiện. Để tạo động lực, Chính phủ cần sớm ban hành các quy định pháp lý như Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon theo Điều 6.2 và 6.4 của Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu, phân bổ hạn ngạch ở mức hợp lý để có thể sử dụng một phần tín chỉ cho việc bù trừ, tạo ra cầu cho thị trường, từ đó đẩy cung phát triển.

Để tạo ra nguồn cung tín chỉ, cần sớm xây dựng và vận hành Hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; phê duyệt cơ chế; phương pháp luận tạo tín chỉ; loại hình dự án được phép phát triển, đăng ký và ban hành tín chỉ carbon; hướng dẫn cụ thể việc phát triển dự án carbon trong nước.

Bên cạnh đó cần có cơ chế khuyến khích đầu tư dự án mang lại hiệu quả giảm phát thải cao như: miễn giảm thuế, giá ưu đãi (như với giá điện năng lượng tái tạo trước đây), vay ưu đãi, thu hút đầu tư nước ngoài cũng như sự tham gia của khu vực tư nhân.

Để phát triển thị trường carbon, hiện nay, Bộ Tài chính đã xây dựng và lấy ý kiến dự thảo Nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước. Dự kiến thị trường carbon trong nước sẽ được vận hành thí điểm từ nay đến hết năm 2028. Mặc dù vậy vẫn còn rất nhiều việc phải làm để tạo ra được hàng hóa giao dịch trên sàn này”.

“Việt Nam đang nổi lên như một điểm sáng trên bản đồ thị trường carbon toàn cầu. Năm 2023, nước ta đã giao dịch thành công 10,3 triệu tấn CO2 kết quả giảm phát thải với Ngân hàng Thế giới, mang về 51,5 triệu USD, đưa Việt Nam vào Top 15 quốc gia bán tín chỉ carbon lớn nhất thế giới. Ước tính, doanh thu hằng năm từ hoạt động này có thể đạt 300 triệu USD, mở ra cơ hội lớn để thúc đẩy kinh tế xanh.

Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành kết quả thực chất, Việt Nam cần phải giải quyết nhiều thách thức về pháp lý, công nghệ, tài chính và nhận thức xã hội.

Về hành lang pháp lý, hiện chưa có quy định thống nhất, rõ ràng về quy trình giao dịch, quản lý, giám sát và quyền sở hữu tín chỉ carbon. Nguy cơ chồng chéo giữa các chính sách thuế, phí và cơ chế chuyển quyền kết quả giảm phát thải khiến doanh nghiệp khó hoạch định kế hoạch dài hạn và làm giảm sức hút đối với nhà đầu tư quốc tế.

Về công nghệ và đo lường – báo cáo – thẩm định (MRV), Việt Nam chưa làm chủ các công nghệ chuyển đổi tín chỉ carbon, vẫn phụ thuộc phần lớn vào công nghệ nhập khẩu. Năng lực quốc gia trong kiểm kê khí nhà kính và xác minh kết quả giảm phát thải còn hạn chế, chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.

Ngoài ra, các dự án đốt rác phát điện  đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu rất lớn, trong khi rác thải chưa được phân loại tại nguồn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất vận hành. Dự án sản xuất biochar quy mô lớn cũng gặp khó khăn do thiếu nền tảng công nghiệp và nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định.

Trong khi đó, ý thức phân loại rác, tận dụng tất cả nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp và hành động vì biến đổi khí hậu còn hạn chế. Đa số doanh nghiệp, cộng đồng chưa hiểu rõ cơ chế vận hành của thị trường carbon và các cơ hội tài chính, thương mại đi kèm.

Ngoài ra, một thách thức khác đó chính là rủi ro về tính toàn vẹn môi trường. Đảm bảo tính bổ sung và tránh tính hai lần là yêu cầu then chốt, đặc biệt với giao dịch song phương theo Điều 6.2 của Thỏa thuận Paris, nhưng đây vẫn là thách thức với Việt Nam.

Để vượt qua các rào cản, tôi cho rằng Việt Nam cần phải triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp.

Thứ nhất, cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách: ban hành hướng dẫn chi tiết về quy trình giao dịch, quản lý, giám sát và quyền sở hữu tín chỉ carbon; xác định rõ mô hình thị trường (tự nguyện, bắt buộc hoặc kết hợp) nhằm tạo sự ổn định và thu hút đầu tư dài hạn.

Thứ hai, tăng cường năng lực công nghệ và MRV: Đầu tư nghiên cứu và phát triển trong nước, hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong các dự án đốt rác phát điện (WTE), biogas công suất lớn và biochar; xây dựng hệ thống MRV đạt chuẩn quốc tế.

Thứ ba, huy động tài chính xanh, phát triển các cơ chế tài chính sáng tạo như tài chính hỗn hợp, bảo lãnh tín dụng, công cụ giảm thiểu rủi ro; tăng cường hợp tác với các tổ chức như Ngân hàng Thế giới, Quý Khí hậu xanh, Ngân hàng Phát triển châu Á và các quỹ khí hậu quốc tế.

Thứ tư, cần nâng cao nhận thức và khuyến khích doanh nghiệp tham gia. Theo đó, đẩy mạnh truyền thông và giáo dục cộng đồng về lợi ích của các dự án carbon và phân loại rác tại nguồn; hỗ trợ doanh nghiệp thông qua đào tạo, tư vấn và ưu đãi chính sách.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống đăng ký tín chỉ carbon: xây dựng và vận hành Hệ thống đăng ký quốc gia  về tín chỉ carbon để quản lý việc tạo, chuyển giao và hủy bỏ ITMOs, bảo đảm minh bạch và tránh tính hai lần.

Việc tham gia tích cực các cơ chế theo Điều 6 Thỏa thuận Paris sẽ giúp Việt Nam huy động nguồn lực quốc tế về cả tài chính và công nghệ, đồng thời bảo đảm tính toàn vẹn môi trường. Nghị định 119/2025/NĐ-CP đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng, nhưng để khai thác hết tiềm năng, Việt Nam cần một chiến lược toàn diện từ thể chế, công nghệ, tài chính cho đến truyền thông.

Tôi cho rằng nếu đi đúng hướng, Việt Nam không chỉ đạt mục tiêu khí hậu mà còn biến hành động vì khí hậu thành động lực phát triển kinh tế bền vững, khẳng định vai trò tiên phong trong tiến trình chuyển đổi xanh...”.

Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 33-2025 phát hành ngày 18/8/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

  Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-33.html

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: