“Trong khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, ngoài một số tập đoàn lớn, phần lớn còn lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh cá thể. Vì vậy, nếu khu vực này không đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững ở mức hai con số thì nền kinh tế quốc gia cũng khó có thể bứt phá lên mức tăng trưởng hai con số.
Do đó, nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khu vực tư nhân, Chính phủ cần chú trọng bốn giải pháp.
Thứ nhất, ban hành chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nhanh chóng thành lập các quỹ đầu tư tư nhân để cung cấp vốn cho khoảng 30% số doanh nghiệp nhỏ và vừa và 50% hộ kinh doanh hiện nay chưa tiếp cận được nguồn vốn do thiếu tài sản thế chấp và gặp nhiều vướng mắc về thủ tục.
Đồng thời, đẩy mạnh số hóa quy trình tín dụng nhằm tự động hóa khâu thẩm định, rút gọn thủ tục, giảm thiểu giấy tờ và rút ngắn tối đa thời gian phê duyệt, qua đó giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như hộ kinh doanh tiếp cận vốn vay kịp thời.
Thứ hai, xây dựng một cổng thông tin tập trung để cập nhật đầy đủ, minh bạch tất cả chính sách, chương trình hỗ trợ và cơ hội kinh doanh dành cho doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh. Cùng với đó, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan đến điều kiện kinh doanh như thuế, đất đai, nhằm tránh biến những quy định này thành gánh nặng về thời gian và chi phí, gây cản trở sự phát triển của khu vực tư nhân.
Thứ ba, áp dụng chính sách giảm thuế suất đối với các doanh nghiệp lớn khi có hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ từ doanh nghiệp nhỏ và vừa, qua đó thúc đẩy sự gắn kết trong chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như hộ kinh doanh. Sự liên kết này sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro trước biến động phức tạp của thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả quản trị doanh thu bán hàng; ước tính mức độ rủi ro có thể giảm 15% trong khi doanh thu tăng khoảng 10%.
Thứ tư, hỗ trợ mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số và phát triển bền vững. Theo tính toán, nếu thực hiện thành công, chi phí vận hành của doanh nghiệp có thể giảm tới 30%, trong khi doanh thu nhờ mở rộng kênh bán hàng trực tuyến có thể tăng thêm 20%. Đây cũng là nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong hoạt động xuất khẩu khi chi phí được tối ưu rõ rệt”.
“Trong bối cảnh dân tộc đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, với khát vọng hùng cường và hội nhập toàn diện, Bộ Chính trị đã ban hành “bộ tứ” Nghị quyết trụ cột. Đây chính là hành lang chính trị và thể chế vững chắc, mở ra không gian phát triển mới để khu vực kinh tế tư nhân khẳng định vị thế, trở thành một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Từ góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân, Chính phủ cần có những chính sách và giải pháp cụ thể nhằm tạo lập môi trường thuận lợi hơn cho khu vực này.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế theo hướng minh bạch, cạnh tranh lành mạnh; đồng thời, loại bỏ các rào cản để doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận công bằng với các nguồn lực như đất đai, tín dụng, hạ tầng, chính sách thuế và phí.
Khi môi trường kinh doanh ổn định, rủi ro chính sách được giảm thiểu, doanh nghiệp tư nhân sẽ mạnh dạn đầu tư dài hạn, kể cả trong những lĩnh vực mới đòi hỏi công nghệ cao, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh và gia tăng đóng góp cho nền kinh tế.
Thứ hai, xây dựng cơ chế ưu đãi vốn trung và dài hạn, đặc biệt đối với những ngành then chốt có vai trò động lực, yêu cầu nguồn lực lớn và lâu dài như hàng không, logistics, năng lượng, hạ tầng. Bên cạnh đó, cần phát triển mạnh thị trường vốn, thúc đẩy phát hành trái phiếu doanh nghiệp an toàn, khuyến khích huy động vốn quốc tế, đồng thời hình thành các quỹ đầu tư phát triển hạ tầng và quỹ đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, đẩy mạnh chuyển đổi số, mở dữ liệu quốc gia và tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính. Việc đồng bộ dữ liệu giữa các bộ, ngành, mở rộng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, doanh nghiệp và tài chính, cùng với triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình, sẽ giúp tiết kiệm đáng kể nguồn lực cho cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp cũng như nâng cao tính minh bạch, khả năng dự báo, tạo lập môi trường kinh doanh hiện đại, thuận lợi, gắn kết chặt chẽ với xu thế quản trị toàn cầu”.
“Doanh nghiệp sẽ làm gì trong kỷ nguyên mới khi các nghị quyết đã được ban hành? Tôi muốn nhấn mạnh một điều rất quan trọng với cộng đồng doanh nghiệp rằng công nghệ không còn là “công cụ hỗ trợ”, mà phải trở thành “nền tảng cốt lõi” trong tư duy và vận hành của các doanh nghiệp.
Chúng ta không thể chỉ dùng phần mềm nhân sự, phần mềm bán hàng một cách rời rạc mà cần đặt công nghệ vào trung tâm mô hình quản trị, tái định hình lại mọi quy trình, từ quản lý, sản xuất, cung ứng cho đến tương tác với khách hàng. Công nghệ sẽ giúp các doanh nghiệp quản trị tốt hơn, minh bạch hơn và nâng cao khả năng cạnh tranh một cách bền vững.
Tuy nhiên, một trong những điểm nghẽn lớn hiện nay là thiếu nhân lực biết làm việc với công nghệ, đặc biệt là công nghệ AI. Nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn cho dây chuyền sản xuất, nhưng sau cùng vẫn phải dừng lại chỉ vì... thiếu người điều hành đủ năng lực, thiếu đội ngũ chuyển đổi. Bài học từ các doanh nghiệp đi đầu cho thấy: chuyển đổi số không bắt đầu từ công nghệ, mà bắt đầu từ con người.
Theo tôi, để phát triển vươn lên, phát triển bền vững, doanh nghiệp tư nhân cần “đi cùng nhau”, xây dựng hệ sinh thái thực sự gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau, cùng là các sản phẩm của Việt Nam. Thực tế cho thấy, nếu chỉ một mình thì rất khó để bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ có thể đi xa. Chúng ta cần cộng hưởng nguồn lực, chia sẻ dữ liệu, kết nối năng lực, từ đó tạo ra các chuỗi giá trị chung, sản phẩm chung, thị trường chung.
Những doanh nghiệp mạnh không phải là những đơn vị làm mọi thứ, mà là những tập đoàn có hệ sinh thái đủ lớn, những đơn vị biết chia sẻ. Riêng một mình FPT không thể giải quyết được tất cả các bài toàn lớn của quốc gia, mà cần hệ sinh thái, các doanh nghiệp nhỏ đi cùng nhau. Chúng ta cần liên kết, chia sẻ và tin tưởng nhau để đi xa. Khi cùng nhau tạo ra một hệ sinh thái, chúng ta không chỉ mạnh hơn mà còn an toàn hơn.
Tôi cũng đặc biệt tâm đắc một ý: đừng chỉ “đưa nghị quyết vào cuộc sống”, mà hãy “đưa cuộc sống vào nghị quyết””.
“Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 139/NQ-CP của Chính phủ, ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 là động lực quan trọng của nền kinh tế. Đây là sự ghi nhận, khích lệ, tiếp thêm niềm tin để doanh nghiệp cùng các thành phần kinh tế khác, mở ra một kỷ nguyên hội nhập mới với nền kinh tế toàn cầu.
Với 46 năm hoạt động trong nhiều lĩnh vực, tập đoàn TTC có một số kiến nghị.
Thứ nhất, trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động, kiến nghị Nhà nước tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc nhóm nông nghiệp và năng lượng tái tạo có đầu tư bài bản, ứng dụng công nghệ cao, áp dụng ESG được tiếp cận nguồn vốn trong và ngoài nước với thủ tục đơn giản, lãi suất phù hợp để kích thích sản xuất. Đồng thời cần thúc đẩy xây dựng thị trường tín chỉ carbon, tăng cường hợp tác quốc tế để huy động nguồn lực cho mục tiêu giảm phát thải.
Thứ hai, trong lĩnh vực du lịch, Chính phủ cần công bố một cơ chế pháp lý rõ ràng, cơ quan lãnh đạo phụ trách từng vùng du lịch, phù hợp với Quyết định 509/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, cần đảm bảo Cục Du lịch Quốc gia, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giữ vai trò điều phối chính để xây dựng sản phẩm du lịch xuyên vùng, thương hiệu quốc gia thống nhất.
Thứ ba, trong lĩnh vực bất động sản dân dụng, nhu cầu nhà ở thực tế với giá phù hợp đang rất lớn. Trong khi đó, nhiều dự án đang dở dang do gặp vướng mắc pháp lý trong nhiều năm. Doanh nghiệp kiến nghị Chính phủ đơn giản hóa các quy trình, quy định liên quan đến quy hoạch, cấp phép xây dựng và giao đất, đặc biệt là tháo gỡ nút thắt trong khâu phê duyệt, tăng khả năng tiếp cận đất đai phù hợp. Cần có hướng dẫn cụ thể, xác định trách nhiệm và sự phối hợp giữa 2 cấp chính quyền trong triển khai thủ tục pháp lý dự án”.
“Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025 diễn ra ở thời điểm then chốt, khi Bộ Chính trị vừa ban hành 4 nghị quyết rất quan trọng phục vụ phát triển kinh tế, trong đó nổi bật nhất là Nghị quyết 68/NQ-TW về phát triển kinh tế tư nhân vào tháng 5/2025. Nghị quyết này là một dấu mốc quan trọng, đại diện cho sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước khi đặt mục tiêu có ít nhất 20 doanh nghiệp tiên phong tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu vào năm 2030 và có 3 triệu doanh nghiệp vào năm 2045, đóng góp 60% cho GDP. ADB đánh giá những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam để hỗ trợ và tạo động lực cho cộng đồng doanh nghiệp là hành động rất kịp thời và mang tính chiến lược.
Tuy nhiên, trong bối cảnh địa kinh tế có nhiều diễn biến nhanh chóng, quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu, việc tiếp tục quá trình cải cách là rất cần thiết. Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm quốc tế từ các chaebol của Hàn Quốc và các “gã khổng lồ” công nghệ của Trung Quốc để xây dựng một chiến lược kinh doanh khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Trong bối cảnh này, các sáng kiến hợp tác khu vực của ADB như lưới điện ASEAN hay hợp tác xuyên biên giới cũng cho thấy sự hội nhập và kết nối rất quan trọng. Tại Việt Nam, sự hỗ trợ của ADB cho khu vực tư nhân đã được thể hiện trong chiến lược đối tác quốc gia giai đoạn 2023-2026, ưu tiên tăng trưởng xanh, toàn diện, lấy khu vực tư nhân làm động lực chính, tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước và tăng cường khả năng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ.
Ngân hàng sẵn sàng tiếp tục hỗ trợ Việt Nam triển khai Nghị quyết 68, hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn chính sách để giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn xây dựng một khu vực tư nhân năng động, bền bỉ, có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Cùng nhau, chúng ta sẽ mở ra một tương lai thịnh vượng chung”.
“Điểm nghẽn về pháp chế, pháp lý là rào cản lớn nhất cho việc phát triển kinh tế tư nhân. Các học thuyết khoa học và pháp lý cho thấy rằng thể chế quyết định sự thịnh vượng hay tụt hậu của một quốc gia. Thể chế tốt sẽ khuyến khích đầu tư dài hạn, nâng cao hiệu suất kinh tế và tạo ra sự thịnh vượng bền vững. Ngược lại, nếu một thể chế kém hiệu quả sẽ làm gia tăng các chi phí giao dịch, kìm hãm sáng tạo và cản trở sự tăng trưởng.
Việt Nam hiện nay vẫn còn những vướng mắc của hệ thống pháp luật. Đó là công tác xây dựng và thi hành pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Còn có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư. Việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh; thủ tục hành chính còn rườm rà.
Tổ chức thực thi pháp luật vẫn là khâu yếu; thiếu cơ chế phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả. Chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới, chưa tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Chính những vướng mắc, bất cập trên đã làm gia tăng chi phí giao dịch, chi phí sản xuất, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư. Những bất cập, vướng mắc này chính là rào cản kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Từ góc độ nghiên cứu và đào tạo pháp luật, chúng tôi cho rằng một thể chế pháp lý kiến tạo cần phải được xây dựng trên 5 vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, đảm bảo và bảo vệ hiện hữu quyền sở hữu, quyền tài sản, qua đó giảm thiểu các rủi ro pháp lý, khuyến khích đầu tư và đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, đảm bảo thực chất quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng và sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo lập một môi trường cạnh tranh công bằng.
Thứ ba, cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện đầu tư, kinh doanh và thủ tục hành chính, qua đó giảm chi phí giao dịch, tăng tính minh bạch, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Thứ tư, khuyến khích phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là thông qua giáo dục đại học gắn với nhu cầu thị trường và xu hướng toàn cầu.
Thứ năm, thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn nhằm hướng đến phát triển một nền kinh tế bền vững.
Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp này, thể chế pháp lý của Việt Nam không chỉ là nền tảng vững chắc mà còn trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia, mở rộng dư địa phát triển cho kinh tế tư nhân, tạo động lực cho tăng trưởng bền vững, hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tới”.
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 38-2025 phát hành ngày 15/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-38.html
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: