

Ngành thép Việt Nam đã dần vượt qua khó khăn để phục hồi. Xin ông cho biết cụ thể hơn về kết quả?
Vượt qua khó khăn, thách thức của năm 2024, ngành thép Việt Nam đã đạt được những kết quả khá tích cực. Cụ thể, sản xuất thép thô đạt hơn 21,98 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023; tiêu thụ thép thô nội bộ và xuất bán đạt 21,41 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, chủ yếu xuất khẩu phôi dẹt (slab) đạt 2,783 triệu tấn, tăng 55% so với cùng kỳ 2023.
Sản xuất thép thành phẩm các loại đạt 29,443 triệu tấn, tăng 6,1%. Trong đó, sản xuất thép tôn mạ kim loại và sơn phủ màu tăng cao nhất là 23,1%, thép xây dựng tăng 10,1%, ống thép tăng 3,5% và cuộn cán nóng (HRC) tăng 1,5%; duy nhất sản xuất thép cuộn cán nguội ghi nhận mức tăng trưởng âm 19,4%.
Bán hàng thép thành phẩm đạt 29,09 triệu tấn, tăng 10,4% so với cùng kỳ. Mức tăng trưởng được ghi nhận ở hầu hết các mặt hàng, trong đó cuộn cán nguội (CRC) tăng cao nhất là 34,6%; tiếp đến là tôn mạ kim loại và sơn phủ màu tăng 26,9%, thép xây dựng 9,3% và ống thép 5,5%, riêng thép HRC giảm 3,3% so với cùng kỳ 2023. Xuất khẩu thép thành phẩm năm 2024 đạt 8,042 triệu tấn, giảm nhẹ 0,6% so với cùng kỳ 2023.
VSA cho rằng đây là kết quả của việc Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Công Thương và hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài đã đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp các giải pháp tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất, sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.
Chúng ta cũng đã sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại như các quyết định khởi xướng điều tra chống bán phá giá tôn mạ và sơn phủ màu, thép tấm cuộn cán nóng (HRC). Cụ thể, gần đây nhất, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 460/QĐ-BCT ngày 21/2/2025 áp thuế tạm thời đối với một số sản phẩm thép cán nóng có xuất xứ từ Ấn Độ và Trung Quốc; rà soát chống bán phá giá đối với thép hình nhập khẩu vào Việt Nam,... đồng thời ứng phó có hiệu quả với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại tại các thị trường xuất khẩu.

Theo ông, ngành thép Việt Nam sẽ còn đối mặt với thách thức mới nào trong năm 2025?
Năm 2025, bên cạnh việc kế thừa sự phục hồi của năm 2024, công nghiệp thép tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Đó là việc Trung Quốc tiếp tục gia tăng xuất khẩu, khi thị trường nội địa yếu. Các nhà sản xuất thép Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ mất thị trường nội địa, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và công ăn việc làm của người lao động.
Hơn nữa, tình trạng cung vượt cầu của nhiều sản phẩm thép sản xuất trong nước, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của thép nhập khẩu sẽ gây ra sức ép cạnh tranh về giá thép thành phẩm và cạnh tranh trong thị trường nội địa sẽ khốc liệt hơn.
Ngoài ra, sự gia tăng tính bất ổn của thị trường thế giới, đứt gãy chuỗi cung ứng, giá cước vận tải quốc tế… tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các nhà sản xuất thép. Các yếu tố biến động đến giá nguyên, nhiên, vật liệu… chắc chắn sẽ làm tăng chi phí không nhỏ cho sản xuất thép.
Thêm vào đó, sự thay đổi chính sách thương mại của các thị trường xuất khẩu lớn, đặc biệt là sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ trong thị trường toàn cầu, chủ yếu là do dư thừa công suất (theo OECD, dư thừa công suất toàn cầu hiện ở mức 559 triệu tấn) cũng ảnh hưởng tới sự phục hồi của ngành thép Việt Nam.
Hiện nay, hầu hết các nước đều gia tăng các hàng rào kỹ thuật, tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại, lạm dụng chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh… làm công cụ và hàng rào ngăn cản thép nhập khẩu để bảo hộ sản xuất thép trong quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này sẽ là lực cản không nhỏ đối với việc xuất khẩu thép của Việt Nam trong thời gian tới. Vì thế, VSA và các doanh nghiệp trong ngành mong muốn sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Bộ Công Thương và Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài.

Một số thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn đối với sản phẩm thép gần đây sẽ tác động như thế nào tới sản xuất và xuất khẩu của thép trong nước, thưa ông?
Liên quan đến tuyên bố ngày 10 và 11/2/2025 của Tổng thống Donal Trump, Hiệp hội đã nhận được cảnh báo sớm của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ và Văn bản chỉ đạo của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương). Hiện đang triển khai thực hiện.
Tuyên bố này là sự mở rộng phạm vi áp thuế theo điều 232 Đạo luật thương mại mở rộng của Hoa Kỳ năm 1962 mà Tổng thống Trump đã áp đặt vào năm 2018 (trong đó có thép Việt Nam) nhằm bảo vệ các nhà sản xuất thép và nhôm trong nước với lý do an ninh quốc gia. Ngoài ra, lần tăng thuế này còn mở rộng đối với các sản phẩm hạ nguồn sử dụng thép nước ngoài, bao gồm thép kết cấu chế tạo, và dây cáp thép dùng cho bê tông dự ứng lực.
VSA được biết những nước chưa bị áp mức thuế 25% đối với thép nhập khẩu như Canada, Brazil, Mexico, Hàn Quốc và môt số quốc gia khác là những nước được miễn thuế theo các ngoại lệ đặc biệt trước đây.
Năm 2024, tổng kim ngạch nhập khẩu thép vào Hoa Kỳ là 31,373 tỷ USD; trong đó, Việt Nam đứng thứ 8 với kim ngạch xuất khẩu khoảng 983 triệu USD, tăng gần 159% so với năm 2023. Tuy nhiên, thép Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3,1% tổng kim ngạch nhập khẩu thép vào Hoa Kỳ trong bối cảnh hầu hết các sản phẩm thép Việt Nam đang phải chịu mức thuế là 25% từ năm 2018 (trừ một số sản phẩm thép khác đang được loại trừ trong danh mục của Hoa Kỳ như thép dự ứng lực…).
Dự báo về ngắn hạn, VSA cho rằng sản phẩm thép Việt Nam sẽ có lợi thế so với các sản phẩm thép của các nước bị áp thuế 25% lần này. Thép Việt Nam vẫn có cơ hội tiếp tục xuất khẩu vào Hoa Kỳ do năng lực sản xuất của các nhà sản xuất thép của Hoa Kỳ chưa thể đáp ứng ngay nhu cầu trong nước…Tuy nhiên, chúng ta cần phải xác định là lợi thế này sẽ nhanh chóng mất đi vì các quyết định điều tra về phòng vệ thương mại.

Thực tế năm 2024, Hoa Kỳ đã khởi xướng điều tra kép chống trợ cấp và chống bán phá giá đối với thép chống ăn mòn (CORE) của Việt Nam. Các nhà sản xuất thép trong nước đã và tiếp tục phải đối mặt với nhiều vụ kiện về phòng vệ thương mại khác, do xu thế bảo hộ ngày càng gia tăng tại thị trường Hoa Kỳ.
Về trung và dài hạn, khi các nền kinh tế lớn với công nghệ sản xuất thép hiện đại (Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Canada,…) bị áp thuế thép 25% sẽ tác động lớn đến dòng chảy thương mại thép toàn cầu, do sản phẩm thép của các nền kinh tế này gặp khó tại thị trường Hoa Kỳ, khiến chuỗi cung ứng thép toàn cầu bị ảnh hưởng. Khi các doanh nghiệp sản xuất thép của các nước này gặp khó, họ sẽ tìm đường xuất khẩu sang các nước khác, trong đó có Việt Nam, hoặc quay trở lại thị trường nội địa. Thực tế, thép Trung Quốc đang tràn vào Việt Nam sau khi bị Hoa Kỳ áp điều khoản 232.
Trong bối cảnh dư thừa công suất toàn cầu, các nền kinh tế lớn sẽ lại tiếp tục gia tăng các biện pháp bảo hộ với mặt hàng thép. Điều này sẽ khiến thép Việt Nam gặp khó khăn không những tại Hoa Kỳ, mà còn gặp khó tại gần 30 thị trường truyền thống hiện nay (ngoài Hoa Kỳ).
Chúng ta cũng phải đối diện với một nguy cơ khác, đó là vấn đề logistics và tàu biển, do Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) điều tra với Trung Quốc. Theo đánh giá của VSA và một số công ty sản xuất và xuất khẩu thép của Việt Nam, đề xuất của USTR nếu áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí dịch vụ logistics và vận hành của các công ty vận tải biển quốc tế, trong đó có Việt Nam.
Thời điểm này chưa đánh giá được đầy đủ mức tác động cụ thể, nhưng về sơ bộ thì sẽ trực tiếp làm tăng giá vận tải nếu thép Việt Nam sử dụng đội tàu Trung Quốc, điều này cũng gián tiếp tăng giá đối với tàu của Hoa Kỳ cũng như phần còn lại của thế giới do sự khan hiếm khi thuê tàu.
Tuy nhiên, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thép Việt Nam đã chuẩn bị kế hoạch ứng phó từ xa với vấn đề này, để giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của quyết định trên. Chúng tôi đánh giá cao việc Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ đã kịp thời cảnh báo sớm cho doanh nghiệp thép Việt Nam từ ngày 25/2/2025.

VnEconomy 25/03/2025 10:30
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 12-2025 phát hành ngày 24/3/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1308
