GDP bình quân hai năm rưỡi tăng 5,69% (năm 2021 tăng 2,58%, năm 2022 là 8,02%, 6 tháng năm 2023 là 3,72%). Như vậy, tăng trưởng chưa đạt mục tiêu đề ra (bình quân 5 năm 2021-2025 khoảng 6,5-7%) và chưa bền vững.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 là 6,5%, trong 2 quý còn lại, tăng trưởng trung bình phải đạt ít nhất 9,27%. Để năm 2023 GDP đạt 6,5% như mục tiêu đề ra (khoảng 6,5% trong giai đoạn 2021 – 2025), tăng trưởng bình quân 2 năm 2024 và 2025 phải đạt 7,7%/năm. Đây là mức rất cao: giai đoạn 2016-2020 GDP trung bình chỉ đạt 5,99%/năm, với điều kiện thị trường trong nước và nước ngoài đều thuận lợi hơn hiện nay. Trong gần 30 năm qua, thời gian tăng trưởng cao (hơn 8-9%) quá ngắn, chỉ duy trì được trong khoảng 10 năm thập kỷ 90 thế kỷ trước và cứ 10 năm, tăng trưởng GDP trung bình giảm hơn 0,5 điểm phần trăm.
Nghị quyết Đại hội 13 đặt mục tiêu cụ thể hơn về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về tiêu chí GDP bình quân đầu người, năm 2022 đạt 4.109 USD so với kế hoạch là 3.900 USD, tăng 392 USD so với năm 2021. Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2022 Việt Nam đã chạm ngưỡng nhóm nước thu nhập trung bình cao, đạt mục tiêu ngay từ nửa nhiệm kỳ.
Tỷ lệ đô thị hóa năm 2022 ước đạt 41,7%, tăng 1,2% so với năm 2021. Chỉ tiêu đô thị hóa 45% cho năm 2025 không dễ dàng nếu kinh tế tăng trưởng không đủ cao để tạo ra việc làm ở đô thị, thu hút lao động từ nông thôn ra đô thị. Thị trường bất động sản đóng băng kéo dài sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới chỉ tiêu này.
Liên quan chặt chẽ là chỉ tiêu lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội. Năm 2022 tỷ trọng này là 27,5%. So với mục tiêu đến năm 2025 khoảng 25% thì không cách quá xa nhưng không dễ đạt được.
Cơ cấu kinh tế năm 2021-2022 chuyển dịch theo hướng tích cực: khu vực công nghiệp và xây dựng tăng tương ứng từ 37,86% lên 38,26%. Năm 2022, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt 24,76%, thấp hơn mục tiêu của năm (25,7-25,8%), nhưng thấp hơn không đáng kể so với mục tiêu năm 2025 (25%).
Năm 2021, tỷ trọng kinh tế số đạt 9,6% GDP, đến tháng 6/2022 là 10,41%, cách khá xa mục tiêu đề ra cho năm 2025 là 20% GDP.
Về mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô bền vững, CPI bình quân năm 2021 tăng 1,84%, năm 2022 tăng 3,15% so với năm trước, 6 tháng 2023 tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong nhiều năm qua, chỉ số CPI luôn thấp dưới mục tiêu đặt ra 4%, nhưng năm 2023 có thể sẽ vượt ngưỡng này, thậm chí vượt mục tiêu đặt ra cho năm 2023 là 4,5%. Đây là thành tích vĩ mô ổn định và bền vững được duy trì nhiều năm.
Một cân đối vĩ mô quan trọng khác là ngân sách. Tỷ lệ bội chi quyết toán và thực hiện ngân sách năm 2021-2022 về cơ bản đều đạt mục tiêu đề ra cho 5 năm (bình quân 3,7% GDP, trong đó bội chi ngân sách trung ương 3,4% GDP, ngân sách địa phương 0,3% GDP), tuy khi lập dự toán thì tỷ lệ bội chi đặt cao hơn mục tiêu (năm 2021 và 2022 là 4% GDP, năm 2023 là 4,42% GDP).
Năm 2021, bội chi ngân sách nhà nước chỉ là 2,52% GDP, không bao gồm kết dư ngân sách địa phương (số tuyệt đối là 214.053 tỷ đồng, bao gồm: bội chi ngân sách trung ương là 211.650 tỷ đồng, bội chi ngân sách địa phương là 2.403 tỷ đồng - chưa phải là số quyết toán).
Năm 2022, thu ngân sách nhà nước đạt 1.815,5 nghìn tỷ đồng, bằng 128,6% dự toán và tăng 14,1% so với quyết toán thu năm 2021. Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 342.600 tỷ đồng, bằng 3,6% GDP thực hiện (dự toán là 372.900 tỷ đồng, tương ứng 4% GDP).
Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2023 đạt 875,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54% dự toán năm, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 804,6 nghìn tỷ đồng, bằng 38,8% dự toán năm. Như vậy, trong 6 tháng đầu năm 2023, ngân sách nhà nước bội thu 71,2 nghìn đồng.
Quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021 cho thấy dự toán thu ngân sách chỉ phản ánh một phần thực tế thu ngân sách: năm 2021 thực tế thu theo dự toán chỉ bằng 66,6 % tổng thu cân đối ngân sách và số thu thực hiện cao hơn dự toán khá nhiều (tăng 17,2%), dù kinh tế chỉ tăng 2,58%. Tỷ lệ thu thuế và phí là 15,1% GDP, vẫn cao hơn (1,1%) so với mục tiêu đề ra (13-14% GDP), dù đã thực hiện nhiều chính sách miễn, giãn, hoãn thuế hỗ trợ phục hồi kinh tế (giảm thuế, phí, tiền thuê đất tổng cộng 200.300 tỷ đồng, tương ứng 11,7% tổng chi cân đối ngân sách quyết toán năm 2021).
Trong giai đoạn kinh tế chưa phục hồi, chủ trương không ban hành tăng thuế, phí là đúng đắn. Để tiếp tục giảm gánh nặng thuế, phí, lệ phí, có thể xóa bỏ lệ phí trước bạ. Một số loại ngành nghề kinh doanh có điều kiện mới đòi hỏi cấp phép, do đó áp dụng lệ phí trước bạ là phù hợp. Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên xác định ngưỡng miễn nộp, tương tự như thuế thu nhập cá nhân.
Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước 18,7%GDP, cao hơn mục tiêu đề ra (không thấp hơn 16% GDP) nhưng chưa phù hợp với định hướng trong kế hoạch tài chính 5 năm “...nuôi dưỡng nguồn thu bền vững”. Chuyển nguồn sang năm dự toán tiếp theo khá lớn so với dự toán năm và tăng qua các năm: thu chuyển nguồn từ năm 2020 sang năm 2021 bằng 47,4% dự toán thu của năm 2021 và chuyển nguồn từ năm 2021 sang 2022 tăng 20,7%. Quyết toán ngân sách nhà nước chỉ khẳng định về bội chi ngân sách trung ương, không đưa ra số quyết toán bội chi ngân sách địa phương cho thấy vấn đề kinh niên về lồng ghép ngân sách.
Năng suất lao động, chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng, năm 2021 đạt 97,754 triệu đồng/lao động (giá so sánh 2010); năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 188,1 triệu đồng/lao động (tương đương 8.083 USD/lao động), tăng 622 USD so với năm 2021. Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,8%, thấp khá xa so với mục tiêu tăng trung bình 6,5%/năm.
Về năng lực cạnh tranh quốc gia, theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) mới công bố năm 2023 thì Việt Nam xếp thứ 56 (mục tiêu là vị trí 50). Theo xếp hạng của Liên hợp quốc về thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam xếp thứ 49 vào năm 2020, đến năm 2022 tụt xuống thứ 55 (mục tiêu là 40). Về chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu, năm 2021, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố Việt Nam xếp hạng 44, năm 2022 tụt 4 bậc, xuống 48 (mục tiêu là 40).
Về chính phủ điện tử, năm 2022, Liên hợp quốc xếp hạng Việt Nam thứ 86, không thay đổi so với năm 2020 (mục tiêu là 40). Về chỉ số quyền tài sản năm 2021, Việt Nam từ vị trí cao nhất là 77 tụt xuống thứ 84 trên thế giới (mục tiêu là 60). Như vậy, hiện nay Việt Nam đang cách rất xa mục tiêu năm 2025 về năng lực cạnh tranh quốc gia, nhất là về chính phủ điện tử và quyền tài sản.
Nghị quyết Đại hội 13 nhấn mạnh: “Quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, nhưng trong đột phá chiến lược và nhiệm vụ trọng tâm không đề cập đến cải cách tiền lương cho cán bộ công nhân viên, một bộ phận nhân dân.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2021 là 26,1% và 2022 đạt 26,2%, kế hoạch năm 2023 sẽ đạt mức 27,5%. Như vậy mỗi năm tỷ lệ này chỉ tăng 1-2%, khả năng đến năm 2025 vẫn thấp xa so với mục tiêu 70%.
Các chỉ tiêu về phát triển xã hội đều khả quan: tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị rất thấp (2,79% năm 2022) so với mục tiêu dưới 4%. Các chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế, tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt thấp hơn mục tiêu đề ra nhưng không nhiều. Hai chỉ tiêu số bác sĩ và số giường bệnh trên 1 vạn dân năm 2022 đã vượt mục tiêu đề ra cho 5 năm: 11,1 bác sĩ và 31 giường so với 10 bác sĩ và 30 giường. Việc hoàn thành các chỉ tiêu này dễ dàng từ nửa nhiệm kỳ chưa phản ánh cuộc khủng hoảng y tế trong những năm vừa qua và đòi hỏi đến năm 2025 phải làm nhiều công việc.
Các chỉ tiêu có thể đạt mục tiêu 2025 là tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường. Riêng tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh còn cách mục tiêu rất xa (đến năm 2025 đối với thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%)
Từ năm 2019 đến nay, tỷ lệ hộ tiếp cận nước máy chỉ chiếm khoảng 52%. Lý do được cho là theo quy định thì tư nhân được quyền sản xuất và cung cấp/bán nước sạch. Thế nhưng hệ thống đường ống cung cấp nước sạch là độc quyền tự nhiên như mạng lưới truyền tải điện. Quản lý nhà nước đối với cung cấp nước sạch rất phân tán: khâu sản xuất nước sạch liên quan đến nguồn nước đầu nguồn gồm nước mặt và nước ngầm do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý; khâu phân phối nước sạch do Bộ Xây dựng quản lý đối với đô thị và khu công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với khu vực nông thôn; khâu tiêu dùng nước liên quan đến giá bán nước do Bộ Tài chính quản lý và tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng nước do Bộ Y tế kiểm soát.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện, đặc biệt chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, khiến doanh nghiệp và cán bộ quản lý luôn đối diện nguy cơ vi phạm pháp luật. Trường hợp các doanh nghiệp bất động sản gần đây là một ví dụ, rất nhiều dự án không thể triển khai vì vướng thủ tục pháp lý, bị treo nhiều năm chưa giải quyết được, gây lãng phí lớn. Quy định pháp luật nghiêng về quản lý nhà nước, hạn chế người dân tham gia kinh doanh, thí dụ như kinh doanh vàng, hối đoái, thị trường trái phiếu doanh nghiệp…
Từ đầu nhiệm kỳ, với 8 kỳ họp, trong đó có 4 kỳ bất thường, số lượng nghị quyết do Quốc hội ban hành (84) nhiều gấp 5,25 lần số luật; còn Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết (29) nhiều gấp 7,25 lần pháp lệnh.
Là cơ quan hành pháp, Chính phủ ban hành nhiều nghị quyết hơn Quốc hội: năm 2022, Chính phủ ban hành nghị quyết (77) nhiều gấp 2,5 lần văn bản quy phạm pháp luật (gồm nghị định và quyết định của Thủ tướng Chính phủ); trong 5 tháng đầu năm 2023 ban hành nghị quyết (101) nhiều gấp 4 lần số nghị định; ngoài ra còn ban hành 618 quyết định cá biệt, 36 công điện, 17 chỉ thị.
Thực tế phải ban hành rất nhiều nghị quyết cho thấy chất lượng của thể chế. Khi xây dựng một số luật còn chưa được chuẩn bị kỹ, với các đề án và các nghiên cứu làm cơ sở ban hành. Việc ban hành thêm nhiều nghị quyết có thể làm cho hệ thống pháp luật trở nên phức tạp hơn cho người thực hiện.
Với cách làm như từ trước tới nay, các nút thắt trong đầu tư, xây dựng khó có thể sớm được giải quyết, khi xây dựng một số luật thiếu chuẩn bị các bước căn bản từ nghiên cứu, xây dựng đề án và thực hiện cẩn trọng các bước quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thời gian Chính phủ dành cho hoàn thiện nghị định, luật không nhiều. Trong khi đó cơ quan lập pháp lại chỉ có chưa đến một nửa (193/494) đại biểu làm việc thường xuyên, thiếu hỗ trợ về chuyên môn.
Chính phủ và chính quyền các cấp đang tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Các kết quả chưa thực sự đem lại hiệu quả tiết kiệm thời gian, công sức cho người dân. Trong gần 10 năm với 3 lần thay đổi giấy tờ cá nhân, từ chứng minh thư nhân dân sang căn cước công dân và nay dự kiến chuyển sang căn cước, cho thấy tuy thay đổi nhiều theo hướng tích cực nhưng chưa được nghiên cứu cân nhắc kỹ.
Về phân cấp, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phân cấp 699 thủ tục hành chính trên 100 lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của các bộ, ngành. Tuy nhiên phân cấp ngân sách hiện chưa rõ lộ trình, trừ cơ chế đặc thù cho một số tỉnh, thành phố đã được Quốc hội thông qua.
Đã ban hành 25/26 Nghị định về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, nhưng việc phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan này và giữa Chính phủ với cấp bộ chưa có thay đổi cơ bản, ví dụ như về quản lý cung cấp nước sạch nêu trên. Số bộ và cơ quan ngang bộ không thay đổi, nhưng đã giảm số đơn vị thuộc bộ ngành, chính quyền địa phương.
Về môi trường kinh doanh, Chính phủ (các bộ, ngành và Thủ tướng) đã cắt giảm, đơn giản hóa gần 2,2 nghìn quy định kinh doanh tại 175 văn bản quy phạm pháp luật; công khai, cập nhật hơn 17,8 nghìn quy định kinh doanh, nhưng doanh nghiệp, người dân chưa cảm nhận thấy môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi như Nghị quyết Đại hội đã nêu về đột phá chiến lược 1. Đây là nội dung trên thực tế có khoảng cách rất xa so với nghị quyết.
Thành tựu nổi bật về ổn định kinh tế vĩ mô không giúp giảm bớt tâm lý lo lắng, bất an trong kinh doanh do nguy cơ hình sự hóa các giao dịch kinh tế. Với xếp hạng thấp về quyền tài sản thì nhà đầu tư khó yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Công cuộc chống tham nhũng cần phương pháp chữa tận gốc là hoàn thiện hệ thống pháp luật để kiểm soát quyền lực như đã nêu trong đột phá chiến lược 1. Thực tế đến nay cho thấy khó có thể kỳ vọng kỷ luật, truy tố trên khắp cả nước sẽ giúp cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.
Các vụ án đã khởi tố cần kết thúc điều tra trong thời hạn luật pháp quy định. Các vụ án chưa từng có tiền lệ sẽ trở thành án lệ cần được đưa ra xét xử công khai, công bằng. Vụ án, bao gồm điều tra, truy tố và xét xử giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên ở Nghệ an gần đây đã ảnh hưởng tiêu cực đến “thế trận lòng dân” mà nghị quyết Đại hội 13 nhiều lần nhấn mạnh.
Chủ trương giáo dục, đào tạo và khoa học - kỹ thuật là then chốt được khẳng định từ những năm 60 của thế kỷ XX, từ khi đất nước còn chiến tranh với vô vàn khó khăn. Đó là tầm nhìn chiến lược do đây là hai lĩnh vực quyết định khả năng độc lập, tự chủ của dân tộc.
Về giáo dục, đào tạo, Đại hội 13 khẳng định: “Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả dịch vụ công cơ bản” và “Xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở”. Như vậy, Đại hội 13 tiếp tục chủ trương tính đủ chi phí vào giá, tăng học phí, đồng thời trợ cấp cho các đối tượng thu nhập thấp và mở rộng miễn học phí (cấp tiểu học đang được miễn học phí). Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có chủ trương tăng học phí được nhanh chóng triển khai. Việc cấp bù ngân sách thì chậm, chưa thực hiện đồng bộ như đối với điều chỉnh giá điện.
Xã hội hóa không có nghĩa là giảm chi ngân sách cho các lĩnh vực dịch vụ công cơ bản, thiết yếu. Đây là trách nhiệm của Nhà nước, nhất là khi đảng chính trị cầm quyền khẳng định tính chất xã hội chủ nghĩa. Việc phân bổ ngân sách nhà nước phải đảm bảo dịch vụ công cơ bản cho người dân, đặc biệt là người có hoàn cảnh khó khăn, dân tộc thiểu số… Cần đổi mới chính sách, cơ chế tài chính cho dịch vụ công nói chung và giáo dục đào tạo nói riêng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển. Cần tách riêng khoản mục chi cho giáo dục, đào tạo thành một dòng trong dự toán chi đầu tư phát triển (như chi thường xuyên) để có thể xác định tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo.
Năm 2021 chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề tổng số 249.971 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương 28.971 tỷ đồng (11,6%), ngân sách địa phương 221.000 tỷ đồng. Tổng chi thường xuyên của cả nước giảm 1,9%, lĩnh vực giáo dục, đào tạo giảm 3,4%.
Năm 2022 dự toán chi thường xuyên lĩnh vực giáo dục, đào tạo là 275.709 tỷ đồng, (trong đó ngân sách trung ương là 26.600 tỷ đồng, địa phương là 249.109 tỷ đồng) trên tổng số 1.784.600 tỷ đồng chi ngân sách nhà nước, chiếm tỷ trọng xấp xỉ 15,45% tổng chi ngân sách và tăng 10,1% so với năm 2021.
Năm 2023, dự toán chi thường xuyên cho giáo dục, đào tạo và dạy nghề là 286.700 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2022, bằng 13,8% tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, chi đầu tư phát triển cho Bộ Giáo dục và Đào tạo khá lớn (2.220,832 tỷ đồng).
Trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo được phân bổ từ ngân sách trung ương 6.888,050 tỷ đồng. Tổng cộng 3 năm đã được phân bổ là 5.353,16 tỷ đồng, bằng 77,7% kế hoạch trung hạn. Như vậy, phân bổ kế hoạch đầu tư công trung hạn cho Bộ Giáo dục và Đào tạo rải đều qua các năm, 2 năm 2024 và 2025 không bị sức ép lớn.
Về khoa học và công nghệ: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1-11-2012 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI yêu cầu đảm bảo chi ngân sách từ 2% cho khoa học và công nghệ và tăng dần theo nhu cầu. Luật Khoa học và công nghệ 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm chi cho khoa học và công nghệ từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ” và “Việc phân bổ ngân sách nhà nước … được thực hiện trên cơ sở nhu cầu của thực tiễn và kết quả sử dụng ngân sách đã được phân bổ”.
Năm 2021, dự toán chi thường xuyên cho khoa học và công nghệ là 10.838 tỷ đồng, trong đó từ ngân sách trung ương là 7.732 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 3.106 tỷ đồng; chiếm 0,934% (chưa có chi đầu tư phát triển) trong tổng chi ngân sách trung ương (827.550 tỷ đồng). Năm 2022, chi thường xuyên cho khoa học và công nghệ dự toán là 12.331 tỷ đồng (tăng 13,8% so với năm trước); chiếm 1,086% trong tổng chi ngân sách trung ương (841.310 tỷ đồng). Năm 2023 dự toán chi thường xuyên cho khoa học và công nghệ là 12.091 tỷ đồng (giảm 2%), bằng 0,833% trong tổng chi ngân sách trung ương (1.055.824 tỷ đồng, tăng 25,5%).
Như vậy, chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ về số tuyệt đối cũng như tỷ trọng tương đối trong tổng chi ngân sách trung ương có năm tăng, có năm giảm. Trong dự toán chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước không có dòng riêng cho khoa học và công nghệ.
Trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, Bộ Khoa học và Công nghệ được phân bổ từ ngân sách trung ương 8.260,0 tỷ đồng. Tổng cộng 3 năm đã được phân bổ là 1.016 tỷ đồng, bằng 12,3% kế hoạch đầu tư công trung hạn. Nếu thực hiện đúng dự kiến đầu tư công trung hạn thì năm 2024 và 2025 cần phân bổ kinh phí rất lớn cho Bộ.
Cơ chế chi ngân sách trong khoa học và công nghệ đã mở hơn, phù hợp hơn với hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ nhưng vẫn chưa phù hợp với thực tế. Thông tư 03/2023/TT-BTC quy định mức chi tối đa 1,8 triệu đồng/nhiệm vụ cho chủ tịch mỗi hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Ngoài nguồn kinh phí ngân sách nhà nước, ở cấp quốc gia đã thành lập hai quỹ tài chính do ngân sách cấp vốn với cơ chế phù hợp hơn với hoạt động khoa học và công nghệ, đó là Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia.
Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được hình thành bằng cách trích một phần thu nhập trước thuế, tối đa không quá 10%. Tuy nhiên nếu trong 5 năm không sử dụng hết 70% quỹ thì doanh nghiệp phải nộp lại ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập doanh nghiệp đã trích lập quỹ mà không sử dụng và lãi phát sinh. Doanh nghiệp nhà nước còn có nghĩa vụ nộp phần chưa sử dụng đó cho Quỹ quốc gia, quỹ của bộ ngành, địa phương.
Quy định về thuế như vậy không phù hợp với bản chất hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ (khác với kinh doanh thông thường). Để một sản phẩm mới ra đời, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư rất lớn. Quá trình từ nghiên cứu rồi phát triển công nghệ, chuyển sang sản xuất thử nghiệm rồi mới sản xuất thương mại có thể kéo dài nhiều hơn 5 năm, thậm chí rủi ro không đạt được kết quả.
Cần sớm sửa đổi quy định về Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp, quy định thống nhất cho doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước với tầm nhìn dài hạn, khắc phục tư tưởng tận thu thì mới có tác dụng thực sự khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào khoa học và công nghệ. Nhiệm vụ này trở nên cấp bách để thu hút đầu tư nước ngoài khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, thay cho ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Giao thông là kết cấu hạ tầng được chú trọng tập trung đầu tư nhiều nhất. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, chưa có quy hoạch giao thông tổng thể nên thiếu kết nối giữa các phương tiện: hệ thống đường bộ theo chiều dài đất nước có quốc lộ 1, đường Trường Sơn, đường cao tốc Bắc-Nam, trong khi hệ thống đường sắt Bắc-Nam đã lạc hậu chưa được đầu tư đáng kể; một số cảng biển chưa khai thác hết công suất thiết kế; một số cảng hàng không quá tải trong khi nhiều cảng thu không đủ chi.
Về phân bổ đầu tư, tình trạng dàn trải, thiếu trọng điểm đang được khắc phục. Trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, kết cấu hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, chuyển đổi số… được bổ sung 113,55 nghìn tỷ đồng trong 176 nghìn tỷ đồng (chiếm 64,5%) tổng số vốn của chương trình.
Hiện nay, nguồn vốn để phát triển hạ tầng giao thông chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách nhà nước. Hệ thống chính sách thu từ đất đai, bao gồm các chính sách thuế, phí, thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất cần được tập trung cho mục tiêu kết cấu hạ tầng. Cần khai thác hiệu quả hơn nguồn lực từ tài sản công, từ thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thu cổ tức từ các doanh nghiệp nhà nước cho xây dựng kết cấu hạ tầng.
Trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, Bộ Giao thông Vận tải được phân bổ từ ngân sách trung ương 304.104,741 tỷ đồng, Bộ Thông tin và Truyền thông là 2.424,071 tỷ đồng trong tổng số 2.870.000 tỷ đồng (10,7%). Trong dự toán các năm 2021-2023, Bộ Giao thông Vận tải được phân bổ vốn đầu tư phát triển tổng cộng 187.485,159 tỷ đồng, bằng 61,6% kế hoạch trung hạn. Bộ Thông tin và Truyền thông được phân bổ đầu tư còn thấp hơn cả về số tuyệt đối và tỷ lệ tương đối so với kế hoạch trung hạn: tổng cộng 1.248,3 tỷ đồng, bằng 51,5% kế hoạch trung hạn.
Khu vực tư nhân cũng tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nhưng mức độ còn hạn chế. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư quy định rõ ràng hơn nghĩa vụ trách nhiệm của các bên trong quan hệ đối tác nhưng chưa thúc đẩy thêm nhiều dự án hơn. Một số dự án PPP giao thông phải chuyển sang hình thức đầu tư công.
Khả năng tiếp cận các nguồn vốn dài hạn của nhà đầu tư tư nhân trong nước để đầu tư kết cấu hạ tầng gặp khó khăn do chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng ngắn hạn. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển rất nhanh giai đoạn 2018-2021, phần lớn được phát hành riêng lẻ với thời hạn chủ yếu khoảng 3- 5 năm. Phát hành thành công chủ yếu là ngân hàng và các doanh nghiệp bất động sản.
Năm 2018-2021, trái phiếu doanh nghiệp (chủ yếu huy động từ người dân) phát hành vượt trái phiếu Chính phủ (chủ yếu huy động từ Quỹ Bảo hiểm xã hội, các ngân hàng, công ty bảo hiểm), tương ứng là 224.000 tỷ đồng và 190.000 tỷ đồng; năm 2019, tương ứng là 312.000 tỷ đồng và gần 300.000 tỷ đồng; năm 2020 tương ứng là 436.000 tỷ đồng và 330.000 tỷ đồng.
Từ năm 2021, khi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP bắt đầu có hiệu lực thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp bùng nổ. Các lực lượng tham gia thị trường đã nhanh chóng bị cơ quan nhà nước thanh lọc với kỳ vọng xây dựng thị trường có tổ chức dưới hình thức sàn giao dịch tập trung để kiểm soát phát hành riêng lẻ như chào bán ra công chúng.
Tóm lại, các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội còn có khoảng cách đáng kể so với mục tiêu 5 năm là tăng trưởng GDP nhanh và bền vững, năng lực cạnh tranh quốc gia, năng suất lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch, đầu tư cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin. Để đạt được các chỉ tiêu này, cần tập trung thực hiện những giải pháp đã nêu trong Nghị quyết nhưng chưa thực sự tập trung thực hiện trong hai năm rưỡi qua.
Về giải pháp, tuy được xác định là đột phá chiến lược nhưng chỉ có đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông được tập trung nguồn lực tài chính. Hoàn thiện thể chế bao gồm hệ thống pháp luật, bộ máy và biên chế, tuy được chú trọng hơn các mũi đột phá khác nhưng kết quả thu được chưa như mong đợi. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cần cách làm khoa học hơn. Mũi đột phá khoa học - công nghệ và công nghệ thông tin ít được chú ý đầu tư, chưa đem lại kết quả mong đợi đối với phát triển. Môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia có khoảng cách rất xa giữa Nghị quyết và thực tế. Nhà đầu tư cần môi trường an toàn, tài sản được bảo vệ tốt hơn. Cơ chế tài chính trong các lĩnh vực đột phá còn nhiều bất cập, kìm hãm phát triển, cần tập trung sửa đổi sớm như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm đã nêu.
VnEconomy 12/07/2023 08:00
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 28-2023 phát hành ngày 10-07-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam