Mở đầu cuộc trò chuyện, ông Trần Quốc Khánh chia sẻ: trong một diễn đàn gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết: “Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu điện thoại thông minh; thứ năm về xuất khẩu linh kiện máy tính; thứ bảy về gia công phần mềm... nhưng giá trị thu lại cho Việt Nam lại không đáng kể”. Song, “giá trị thu lại” này lại có ý nghĩa rất lớn đối với “sức bật” của nền kinh tế.
Bình luận về vấn đề này, GS.TS. Hoàng Văn Cường cho rằng đây chính là vấn đề của kinh tế Việt Nam hiện nay: nền kinh tế gia công lắp ráp. Gia công lắp ráp ở đây không chỉ là trong ngành may mặc, mà theo TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, ngay cả những ngành như bán dẫn cũng chỉ dừng ở khâu kiểm đếm và đóng gói, giá trị gia tăng chỉ có 8%, phần giá trị để lại rất thấp. Nếu duy trì tình trạng này, lao động của chúng ta sẽ xoay mãi ở khâu gia công lắp ráp – khâu có giá trị thấp nhất trong chuỗi giá trị.
Chúng ta đang ở thời kỳ dân số vàng mà lại làm những việc giá trị thấp, cơ hội sẽ bị bỏ lỡ. Điều này dẫn đến nguy cơ “chưa giàu đã già” và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Cách thức tăng trưởng hiện nay, với phần giá trị để lại thấp, bị gọi là mô hình “tăng trưởng hộ cho thế giới”.
“Tăng trưởng hộ” - ngoài việc nội lực không được bồi đắp kịp thời, hệ lụy của giá trị để lại thấp, chúng ta sẽ vướng vào bẫy thu nhập trung bình. Chúng ta muốn vươn lên nước thu nhập cao, mà thu nhập cao phải chốt ở năng suất lao động. Song, vấn đề là năng suất lao động chúng ta rất thấp, bây giờ phải tăng năng suất lao động lên, nhưng tăng năng suất không phải bằng cách bắt mọi người làm việc nhiều hơn.
Ví dụ, may gia công bán được 10 đồng, tiền công chúng ta chỉ được 1,5 đến 2 đồng. Dù tăng năng suất gấp đôi, mình cũng chỉ được 2-3 đồng, trong khi người chủ được 16-17 đồng, nên chúng ta có tăng năng suất lên cũng không được. Do đó, muốn tăng năng suất lao động, phải thay đổi mô hình tăng trưởng, phải chuyển sang một mô hình tăng trưởng mới để tăng giá trị Việt Nam lên.
Là người tham gia đàm phán thương mại với rất nhiều nước trên thế giới, ông Trần Quốc Khánh cho rằng chúng ta đã có một tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế rất thành công trong 30 năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gần 60 lần, dẫn đến mô hình tăng trưởng dựa rất mạnh vào xuất khẩu.
Sau khủng hoảng năm 2008, đã có một số ý kiến về mô hình này. Rõ ràng chúng ta phụ thuộc vào bên ngoài và phụ thuộc vào FDI. Giải pháp lúc đó cũng đã cân nhắc nhiều và chúng ta đi đến một kết luận là vẫn dựa vào mô hình này nhưng cần phải đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nhanh hơn nữa bằng cách ký thêm các Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Giải pháp này đã rất thành công, giúp duy trì tăng trưởng cao gần 20 năm nữa.
Tuy nhiên, đến nay thế giới đã và đang thay đổi. Vai trò của WTO càng ngày càng mờ nhạt, đàm phán đa phương đình trệ. Chủ nghĩa dân túy hay chủ nghĩa dân tộc về kinh tế xuất hiện và lây lan nhanh kể từ năm 2014 với một biến thể tuyệt đoan nhất là chủ nghĩa đơn phương. Trong bối cảnh đó, toàn bộ mô hình thành công 30 năm nay của chúng ta đột ngột đứng trước thách thức to lớn. Có nhiều người cho rằng chúng ta cần phải giảm bớt sự phụ thuộc, nhưng ông Trần Quốc Khánh khẳng định nhìn về tương lai xa, toàn cầu hóa hay mô hình xuất khẩu của chúng ta vẫn có tương lai bởi hai lý do.
Một là, mặc dù có những khiếm khuyết nhưng tiến trình toàn cầu hóa đã chứng minh được lợi ích hết sức to lớn của chúng ta trong 80 năm qua chứ không phải trong 10 hay 20 năm. Hai là, quan trọng hơn, toàn cầu hóa là đòi hỏi của thực tiễn khách quan mà không một thế lực nào cản nổi, vì lực lượng sản xuất phát triển sẽ đòi hỏi phải toàn cầu hóa. “Vì vậy, mô hình xuất khẩu của chúng ta vẫn có thể tiếp tục trong thời gian tới”, ông Khánh khẳng định.
Đồng quan điểm, GS.TS. Hoàng Văn Cường cho rằng thế giới biến động với nhiều khó khăn nhưng chắc chắn Việt Nam vẫn phải phát triển theo hướng hội nhập và hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta không đi theo con đường xuất khẩu cũ, mà phải lựa chọn một con đường xuất khẩu mới.
Theo ông Trần Quốc Khánh, có ba hướng đi cho giải pháp này.
Thứ nhất, chúng ta vẫn phải duy trì xuất khẩu nhưng nhưng hội nhập thông minh hơn. Từ chỗ hội nhập “chân thành”, sắp tới chúng ta cần chuyển sang trạng thái hội nhập thông minh hơn để ứng phó với những thay đổi của thế giới bên ngoài. Có như vậy chúng ta mới duy trì được tăng trưởng xuất khẩu.
Thứ hai, quan trọng hơn cả, chúng ta cần phải suy nghĩ về mô hình tăng trưởng cân đối hơn, chú trọng nội cầu. Bên cạnh xuất khẩu, cần chú ý nhiều hơn về nội cầu. Nội cầu có hai mảng là đầu tư công và cầu dân cư. Đầu tư công tốt bởi chúng ta có thể có được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhờ đầu tư công, kiểm soát tốc độ tăng trưởng cũng tốt hơn. Tuy nhiên, đầu tư công cũng mang lại những rủi ro nhất định cho kinh tế vĩ mô, vì vậy, chúng ta phải dựa mạnh vào cầu dân cư, tiêu dùng dân cư mới là nội cầu bền vững nhất. Cần có những chính sách kích thích nhu cầu dân cư, ví dụ như xem lại sắc thuế thu nhập cá nhân, tạm gọi là chính sách tài khóa “vị nội cầu” hơn nữa.
Thứ ba, chúng ta có thể nâng hàm lượng Việt Nam trong giá trị xuất khẩu. Ví dụ: trước đây chúng ta xuất khẩu 500 tỷ USD, chỉ 20% giá trị tạo ra trên lãnh thổ Việt Nam là chúng ta thu được 100 tỷ USD. Nếu nâng tỷ lệ giá trị tạo ra trên lãnh thổ Việt Nam từ 20% lên 25% hay 30% trong kim ngạch xuất khẩu không đổi, chúng ta sẽ thu về nhiều hơn (ví dụ 150 tỷ USD thay vì 100 tỷ USD).
Để nâng được hàm lượng Việt Nam trong giá trị xuất khẩu, từ đó không cần xuất khẩu phải tăng quá mạnh mà chúng ta vẫn có tăng trưởng GDP, theo nguyên Thứ trưởng Trần Quốc Khánh, chúng ta cần chuyển từ hội nhập “chân thành” sang hội nhập thông minh hơn.
Để tăng giá trị Việt Nam, có nhiều con đường. Con đường thứ nhất, đơn giản là thay thế dần các nguyên liệu, công nghệ từ nước ngoài bằng các yếu tố trong nước để tăng thêm phần Việt Nam (tăng tỷ lệ nội địa hóa) và chúng ta đứng ở khâu có giá trị cao hơn. Đơn cử như ngành may mặc, giảm bớt phụ thuộc từ nguyên liệu nước ngoài, thay thế dần bằng nguyên liệu trong nước, công nghệ trong nước để tăng thêm phần Việt Nam. Nếu thay thế dần, kim ngạch xuất khẩu 500 tỷ USD không cần tăng nhưng phần để lại Việt Nam có thể tăng từ 100 tỷ USD (20%) lên 200 tỷ USD (40%). Điều này không khó ngay cả với các ngành đang triển khai.
Nguyên Thứ trưởng Trần Quốc Khánh ủng hộ cách tiệm tiến (thay thế), tăng dần tỷ lệ giá trị gia tăng, nhưng ông đặt bài toán có thể đi tắt đón đầu, bước ngay vào một chuỗi mới mà có thể đạt được vị thế xứng đáng.
GS.TS. Hoàng Văn Cường nhấn mạnh đến con đường thay thế, tức là trước đây phần của Việt Nam ít thì bây giờ chúng ta thay thế dần, để nâng phần Việt Nam lên.
Con đường thứ hai, là tiếp cận ngay từ đầu ở những mô hình kinh tế mới, để tạo ra chỗ đứng của mình trong chuỗi giá trị ở phân khúc cao. Điển hình như trong sản xuất UAV (máy bay không người lái) hay chip bán dẫn. Nếu chỉ dừng lại ở kiểm đếm, đóng gói chip bán dẫn thì vẫn là gia công, nhưng nếu phát triển các doanh nghiệp, đơn vị nghiên cứu để thiết kế, thậm chí đầu tư để sản xuất thử (như mong muốn đầu tư cho Viettel), chúng ta sẽ đứng vào vị thế cao. Như vậy tức là chúng ta phải chuyển từ “hội nhập chân thành” sang “hội nhập thông minh hơn” và từ bị động sang tự chủ hơn.
Tuy nhiên, hai chuyên gia đều nhận định sự thay đổi sẽ luôn có rủi ro. Đặc biệt, khi chúng ta muốn bước chân vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực sử dụng khoa học, công nghệ, tức là cái mà người khác chưa làm, mình phải đi trước. Ít nhất, rủi ro nằm trong các lĩnh vực đầu tư mới.
Theo GS.TS. Hoàng Văn Cường, mình phải đi trước, còn chờ người ta làm xong rồi mình bắt chước thì chúng ta sẽ mãi đi đằng sau. Đầu tư mới có rủi ro, nên chúng ta đang phát triển những chính sách khuyến khích đầu tư mạo hiểm và Nhà nước chấp nhận rủi ro này. Đặc biệt là doanh nghiệp, khu vực sẵn sàng chấp nhận rủi ro để hướng tới kết quả cao hơn. Chấp nhận rủi ro là điều kiện để chúng ta tham gia vào chuỗi giá trị mới, đón trước thành tựu khoa học, công nghệ mới.
Về vấn đề này, ông Trần Quốc Khánh đồng tình khẳng định các quốc gia khác làm được thì chúng ta cũng làm được, bởi chúng ta có nhiều lợi thế như dân số trẻ, trí tuệ và ham công nghệ.
Tuy nhiên, khác với GS.TS. Hoàng Văn Cường, ông Trần Quốc Khánh cho rằng chúng ta không nên cố gắng xác định trước nên làm những cái gì, bởi vì không ai thông minh hơn thị trường. Thị trường cùng với các doanh nghiệp sẽ tự xác định thế mạnh phù hợp với năng lực đất nước.
“Tôi rất ủng hộ cách làm vừa qua của Trung ương Đảng là tạo ra một đường đua thật tốt, sau đó thả cả một đàn ngựa ra cho tự đua, sau đó sẽ chọn lấy con đầu đàn. Tức là tạo ra một môi trường bằng Nghị quyết 57-NQ/TW (khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ thành nền tảng); Nghị quyết 68-NQ/TW (cởi trói cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn lực bình đẳng như khu vực kinh tế nhà nước). Tạo ra môi trường tốt, các doanh nghiệp sẽ như những “con ngựa” chạy, một thời gian sau sẽ thấy ngay con nào là đầu đàn. Tôi tin nội lực chúng ta có”, ông Trần Quốc Khánh khẳng định.
“Vậy, khi thả đàn ngựa ra, ông có kỳ vọng quan sát con ngựa nào chạy tốt, có tiềm năng để bồi dưỡng, định hướng cho nó không?”, GS.TS. Hoàng Văn Cường đặt câu hỏi.
Đáp lại, ông Trần Quốc Khánh cho rằng chúng ta đã nhìn thấy điều này. Dẫn chứng như “con ngựa Lê Tiến Trường” (Chủ tịch HĐQT Vinatex) là một “con ngựa” rất tốt, từ chỗ chỉ có 20% giá trị được tạo ra trên lãnh thổ Việt Nam thì hiện nay Vinatex đã làm chủ đến 40 - 45%, một số sản phẩm đến 50%. Tương tự, ngành da giày cũng vậy.
Như vậy, với những ngành công nghiệp cổ điển đó, chúng ta chỉ cần cố gắng thêm một chút, nỗ lực thêm một chút, đặc biệt là liên kết với nhau thêm một chút để tiến đến làm chủ được chuỗi, giảm phụ thuộc vào khách hàng bên ngoài.
Chưa có định nghĩa chuẩn như thế nào là “làm chủ” một chuỗi. Nếu “làm chủ” là phải giống như Apple, Samsung hay Uniqlo, Nike thì chắc phải một thời gian nữa Việt Nam mới có những “ông chủ” kiểu đó. Còn nếu xác định làm chủ là có tỷ lệ giá trị gia tăng lớn (trên 40%), thì một số ngành cổ điển đã gần đạt, như dệt may, giày dép, đồ gỗ. Một số ngành mới nữa có thể sẽ rất thành công, ví dụ như ngành vắc xin, y tế, du lịch, điều dưỡng.
“Những người như ‘con ngựa đang đua’ - năng lực sẽ hơn nữa, nếu được bồi dưỡng”, GS.TS. Hoàng Văn Cường đồng tình nhấn mạnh.
Ông Trần Quốc Khánh cũng cho rằng nội lực Việt Nam không yếu, có thể “làm chủ” các chuỗi mới, nhưng trước mắt vẫn nên chú trọng các chuỗi cổ điển như dệt may, giày dép, đồ gỗ, thực phẩm,... bởi dư địa là có, chỉ cần chính sách đúng, doanh nghiệp cố gắng thêm một chút, biết liên kết lại với nhau... là có thể vươn lên.
Với các chuỗi mới như xử lý data, chíp bán dẫn... vẫn phải tiếp cận từng bước, nhưng nếu có chính sách vượt trội để thu hút đầu tư và nhân tài từ bên ngoài thì có thể đẩy nhanh tốc độ nắm bắt, học hỏi và vươn lên làm chủ.
Trong quá trình vươn lên làm chủ và gia tăng giá trị nội địa, nên lựa chọn cách tiếp cận “mở cửa đón nhận” và “học hỏi vươn lên”, bởi nếu làm khác đi sẽ có rủi ro vi phạm cam kết quốc tế cũng như nuôi dưỡng tinh thần “dân tộc chủ nghĩa” rất nguy hiểm cho dài hạn.
Tiềm năng và cơ hội là có, song theo ông Trần Quốc Khánh, việc nắm bắt cái cơ hội, khai thác tiềm năng cần có ba chủ thể: Chính phủ; bộ, ngành và doanh nghiệp.
Theo GS.TS. Hoàng Văn Cường, để chớp được cơ hội, phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa người hành động (người thực chiến) là doanh nghiệp và những người định hướng, đó là các bộ, ngành và người tạo ra một môi trường tốt là Chính phủ, Nhà nước.
Các bộ, ngành không làm thay doanh nghiệp được, nhưng sẽ quan sát, nghiên cứu xu thế phát triển thế giới, khả năng trong nước, tiềm năng thế mạnh và mong muốn của doanh nghiệp để đưa ra chiến lược. Như vậy, các bộ, ngành sẽ giúp kết nối sức mạnh của các doanh nghiệp thành chiến lược phát triển các ngành, các lĩnh vực cho đất nước.
Để thực hiện chiến lược, cần có chính sách tập trung vào trọng tâm đầu tư (đặc biệt trong đổi mới sáng tạo). Chính sách đó sẽ giúp doanh nghiệp yên tâm đi đúng hướng. Chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, phải lắng nghe thực tiễn (doanh nghiệp) và nhìn từ bên ngoài (xu thế).
Chính sách Nhà nước đưa ra là định hướng và trợ giúp. Ví dụ, muốn doanh nghiệp Việt Nam song hành cùng doanh nghiệp nước ngoài trong chip bán dẫn (chứ không phải làm hộ, làm thay) thì chính sách nhà nước phải hỗ trợ để họ có năng lực.
Điển hình là chương trình Chính phủ đặt hàng, đó chính là giúp doanh nghiệp có thị trường, có nguồn lực, chứ không phải làm thay. Vì vậy, các bộ, ngành phải nghiên cứu, nhưng doanh nghiệp phải thực chiến, sẵn sàng hy sinh và đặc biệt là liên kết, bắt tay với nhau để tạo sức mạnh bên trong.
Ông Trần Quốc Khánh bổ sung thêm: bộ, ngành chỉ có vai trò định hướng và hoạch định chính sách, người biến các ước mơ đó thành hiện thực là doanh nghiệp, doanh nghiệp cần phải chủ động hơn nữa. Thay vì những yêu cầu, những hỗ trợ mang tính chất tài chính từ phía Nhà nước, doanh nghiệp có thể chủ động đề xuất những sáng kiến để các bộ, ngành tham khảo và từ đó đưa ra chính sách phù hợp.
“Chúng ta đều khát vọng phát triển nhanh, tăng trưởng cao nhưng không được quên những rủi ro có thể xảy ra đi liền với tăng trưởng cao. Vậy, Chính phủ cần có vai trò như thế nào để thực hiện khát vọng này?”, ông Trần Quốc Khánh đặt câu hỏi.
GS.TS. Hoàng Văn Cường nhấn mạnh: vai trò Chính phủ nằm ở chỗ giải quyết vấn đề rủi ro. Đặc biệt, khi đi vào lĩnh vực mới, rủi ro không chỉ để doanh nghiệp gánh chịu, mà trước hết phải có Nhà nước tạo ra khuôn khổ để doanh nghiệp “tự do chạy” mà không vướng gì cả. Chính phủ kiến tạo, tạo ra một không gian, một môi trường thật tốt.
Hiện nay, chúng ta đang đi vào thời kỳ khoa học, công nghệ. Doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư mạo hiểm để ứng dụng khoa học, công nghệ, nhưng nghiên cứu ban đầu để tạo ra điều đó, tạo ra chiến lược phát triển công nghệ này của quốc gia, phải là Nhà nước, Chính phủ phải đi đầu. Chính phủ phải chấp nhận rủi ro để tạo ra những hướng ban đầu (như Nghị quyết 57 xác định “chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm…”).
Chính phủ phải tạo ra những môi trường để trợ giúp cho các doanh nghiệp tăng cường năng lực kiến tạo, hỗ trợ những gì họ cần và mong muốn.
Đặc biệt, những năm qua, trong bối cảnh thế giới có rất nhiều biến động nhưng kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao, các nhà đầu tư vẫn tìm đến Việt Nam, điều rất quan trọng giúp chúng ta thành công được đó là duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư an toàn để doanh nghiệp yên tâm rằng họ bỏ tiền vào sẽ không bị rủi ro về mặt tài chính, không bị rủi ro về các yếu tố khác và họ yên tâm đầu tư.
Kết luận cuộc trò chuyện, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh nhấn mạnh: chúng ta có một mô hình tăng trưởng rất tốt trong 30 năm qua, nhưng thế giới đã và đang thay đổi, nên đã đến lúc chúng ta cần xem xét lại, không phải bỏ đi mô hình đó mà cần làm cho mô hình cân đối hơn, chú trọng hơn nữa đến nhu cầu từ trong nước hay khối tiêu dùng của dân cư.
Bên cạnh đó, cần có những giải pháp thông minh hơn để giúp xuất khẩu phải phục vụ tốt hơn cho nhu cầu trong nước nhiều hơn nữa, bằng cách gia tăng hàm lượng của Việt Nam trong hàng xuất khẩu.
“Để làm được điều này, các bộ, ngành đưa ra định hướng, Chính phủ đóng vai trò kiến tạo và phòng chống rủi ro. Chúng tôi rất kỳ vọng vào vai trò chủ động hơn nữa từ phía các doanh nghiệp”, ông Trần Quốc Khánh nhấn mạnh lần nữa.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: