VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới
Menu
VnEconomy
VnEconomy

Trong nhiều năm qua, kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Sức bật này không chỉ đến từ các yếu tố bên ngoài, mà còn được bồi đắp bởi những nội lực mạnh mẽ bên trong. Ông đánh giá thế nào về nội lực nền kinh tế Việt Nam hiện nay?

Nội lực, hay yếu tố nội sinh, chính là sức mạnh bên trong của nền kinh tế, quyết định khả năng phát triển và sức chống chịu, từ đó khẳng định tính tự chủ của một quốc gia, không lệ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Tôi cho rằng nội lực của nền kinh tế Việt Nam hiện nay khá mạnh, được thể hiện trên năm yếu tố rất cơ bản sau đây.

Thứ nhất, nội lực về con người. Đây là một lợi thế vô cùng lớn của Việt Nam. Với quy mô dân số trên 100 triệu dân và thu nhập đang tăng nhanh, Việt Nam có một thị trường nội địa rộng lớn và đầy tiềm năng. Cơ cấu dân số trẻ, nguồn lực lao động dồi dào, tỷ lệ người tham gia lực lượng lao động chiếm tới 68% tổng dân số, Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng, với nhóm lao động trẻ rất đông. Điều này có thể mang lại sức bật mạnh mẽ cho nền kinh tế, bởi đây là lực lượng lao động trẻ rất năng động, sáng tạo và có tư duy khoa học tốt. Việt Nam luôn thuộc nhóm 10 nước đứng đầu trong các kỳ thi olympic quốc tế và toán học, vật lý, tin học, hóa học và sinh học.

Thứ hai, nội lực về nguồn lực tự nhiên, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, năng lượng và vị trí địa lý, địa chính trị. Việt Nam có tài nguyên đất đai và khí hậu đặc thù, sản xuất được nhiều loại nông sản, thủy sản đặc sản được thị trường thế giới ưa chuộng. Chúng ta có những loại khoáng sản quý hiếm tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội; có tiềm năng về năng lượng dồi dào, đặc biệt là tiềm năng về năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió và biển. Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược nằm trên con đường biển nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương là một lợi thế lớn trong phát triển hậu cần vận tải quốc tế và kinh tế biển.

Thứ ba, nội lực về vật chất kỹ thuật: bao gồm vốn, hạ tầng, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tập trung đầu tư rất mạnh cho hạ tầng giao thông như đường bộ cao tốc, các cảng hàng không quốc tế, đường sắt tốc độ cao, cảng biển quốc tế và hạ tầng công nghệ số, đường truyền tốc độ cao, trung tâm dữ liệu quốc gia, chuyển đổi số và AI. Việt Nam không có tiềm lực tiền vốn nhiều nhưng người dân Việt Nam rất cần kiệm nên lượng tiền vốn trong dân là rất lớn.

Thứ tư, sự ổn định về kinh tế vĩ mô và chính trị. Trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới chao đảo, Việt Nam duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và chính trị ổn định, tạo ra niềm tin mạnh mẽ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, là một sức mạnh nội lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và thúc đẩy đầu tư trong nước.

Thứ năm, kết quả của các nhân tố trên, mang lại quy mô và kết quả tăng trưởng của nền kinh tế. Quy mô nền kinh tế của Việt Nam chưa lớn, nhưng chúng ta liên tục tăng vị thế vị trí xếp hạng trên thế giới. Điều đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rất cao, liên tục đạt 7-8%, ngay cả trong bối cảnh nền kinh tế thế giới bất định. Tốc độ tăng trưởng vượt trội đó cho thấy tiềm lực và nội lực của nền kinh tế Việt Nam khá mạnh.

VnEconomy

Nhiều ý kiến cho rằng sức mạnh này trên thực tế chưa được phát huy tối đa. Mặc dù Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại di động thông minh, thứ 5 về linh kiện máy tính,… song giá trị thu lại cho chúng ta không đáng kể. Vậy, đâu là nguyên nhân và hậu quả là gì thưa ông?

Nguyên nhân cơ bản là nền kinh tế của Việt Nam là nền kinh tế gia công, đảm nhận các khâu có giá trị gia tăng thấp. Mặc dù xuất khẩu nhiều, nhưng phần lớn giá trị thu được lại trả cho giá trị nhập khẩu phụ tùng, nguyên vật liệu và lợi nhuận của nhà đầu tư chuyển về nước chủ nhà, phần giá trị để lại trong nước được hưởng rất thấp, các ngành điện thoại, máy tính, điện tử chỉ khoảng 20-30%; trên 70% trả cho nước ngoài. Vì vậy, tăng trưởng dựa vào hàng xuất khẩu gia công lắp ráp được gọi là tăng trưởng "hộ" các nước khác.

Các hoạt động gia công, lắp ráp, là những khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị, vì nằm ở "đáy của đường cong nụ cười". Đây là nguyên nhân căn bản làm cho năng suất lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới, cho dù có tăng cường lao động, nỗ lực làm việc miệt mài để tăng gấp đôi sản phẩm, thì phần giá trị tăng thêm nhận được cũng không đáng kể. Ví dụ, may gia công một chiếc áo được nhận tiền công 1,5-2 USD nhưng bán ở Mỹ được 20 USD, nếu công nhân may tăng năng suất gấp đôi được 2 chiếc áo thì cũng chỉ được nhận từ 3-4 USD trong khi người chủ được 36-37 USD.

Nếu cứ loay hoay với một nền kinh tế gia công, lắp ráp ở những khâu có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị thì năng suất lao động sẽ không thể cao, là nguyên nhân rơi vào bẫy thu nhập trung bình, không thể bứt phá trở thành nước có thu nhập cao. Hậu quả của việc này còn là chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ thời kỳ "dân số vàng"; chúng ta đang lãng phí nguồn lực trẻ, năng động, sáng tạo vào những công việc giá trị thấp, dẫn đến một nguy cơ khác, đó là "chưa giàu đã già".

Khi lực lượng lao động trẻ, có khả năng sáng tạo và đột phá nếu không được tham gia vào những công việc mới, sáng tạo, đòi hỏi trình độ cao, thì đến khi già đi, họ sẽ chỉ làm theo những công việc vốn có ở khâu giá trị gia tăng thấp, dẫn tới sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

VnEconomy

Theo ông, đâu là những rào cản chính khiến doanh nghiệp khó chuyển mình lên những khâu có giá trị gia tăng cao hơn?

Đầu tiên là do năng lực của bản thân doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thể hiện qua quy mô vốn thấp, công nghệ lạc hậu và trình độ quản trị chưa cao. Với năng lực yếu kém như vậy, doanh nghiệp Việt Nam không thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của các khâu có giá trị gia tăng cao, đòi hỏi công nghệ hiện đại, vốn đầu tư lớn và trình độ lao động phải có chuyên môn kỹ thuật cao.

Cùng với đó là chất lượng nguồn nhân lực, mặc dù có lực lượng lao động trẻ và dồi dào, nhưng trình độ chuyên môn, đặc biệt là kỹ thuật cao, vẫn còn hạn chế. Vì vậy, một trong 3 khâu đột phá chiến lược là đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao, để  lao động có đủ trình độ đảm nhận những công việc ở các khâu then chốt.

Bên cạnh đó, trong một thời gian dài, chúng ta đã thu hút FDI bằng mọi giá để giải quyết vấn đề thiếu vốn và giải quyết việc làm do thừa lao động. Điều này đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đưa những công nghệ thâm dụng lao động, tập trung vào các khâu gia công và lắp ráp có giá trị thấp vào Việt Nam.

Đáng tiếc là chúng ta đã thiếu các ràng buộc chặt chẽ để yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài phải đầu tư công nghệ cao và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước. Nhiều nước đã áp dụng các chế tài mạnh mẽ hơn, buộc các doanh nghiệp FDI phải nội địa hóa và chuyển giao công nghệ theo lộ trình cho đối tác trong nước. Chúng ta cũng chưa có cơ chế để các doanh nghiệp FDI phải liên kết với doanh nghiệp trong nước trong chuỗi cung ứng, nên các doanh nghiệp trong nước thường đứng ngoài hoặc chỉ đảm nhận các khâu phục vụ bên ngoài chuỗi cung ứng.

Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước chưa đủ mạnh để có thể đứng ngang hàng với các nhà đầu tư nước ngoài trong các liên doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp trong nước còn thiếu sự liên kết, trong khi phần lớn là doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực yếu, thay vì hợp tác với nhau để tạo sức mạnh, thì các doanh nghiệp lại tự cạnh tranh với nhau, tự làm suy yếu lẫn nhau. Điều này càng làm cho các doanh nghiệp trong nước không đủ tiềm lực để có thể tiếp cận được với các khâu đòi hỏi kỹ thuật cao trong chuỗi cung ứng hiện đại mang tính toàn cầu.

VnEconomy

Con đường nào để chúng ta chuyển dịch từ gia công, lắp ráp lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, thưa ông?

Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở, tăng trưởng phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định, chủ nghĩa bảo hộ và chính sách thuế đối ứng của Mỹ đang thu hẹp quy mô thương mại toàn cầu. Do vậy, Việt Nam không thể tăng trưởng bằng con đường gia tăng quy mô hàng hóa xuất khẩu như thời gian vừa qua, mà phải chuyển hướng sang tăng phần giá trị gia tăng tạo ra trong nước của hàng hóa, để cùng một lượng hàng hóa xuất khẩu như trước nhưng phần giá trị để lại trong nước sẽ tăng lên từ 20-30% như hiện nay lên tỷ lệ chiếm ưu thế.

Đó chính là việc tăng vị thế của Việt Nam phải tham gia và nắm giữ được các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đó cũng là là vấn đề cốt lõi để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và khai thác hiệu quả nội lực của chúng ta.

Có hai con đường chính để giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao vị thế của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Một là, tăng cường năng lực để thay thế các nhà đầu tư nước ngoài. Con đường này đòi hỏi phải nâng cao năng lực của doanh nghiệp về vốn, công nghệ và trình độ lao động để có đủ sức mạnh đảm nhận các khâu có giá trị gia tăng cao. Nhiều quốc gia, điển hình như Trung Quốc, đã thực hiện thành công con đường này. Họ đưa ra những điều kiện để buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải liên kết với doanh nghiệp trong nước, từ đó giúp đối tác là doanh nghiệp trong nước tiếp cận công nghệ và học hỏi kinh nghiệm để dần thay thế các đối tác nước ngoài.

Trong thời gian tới, khi thu hút FDI thế hệ mới, chúng ta phải lựa chọn những nhà đầu tư có khả năng đưa công nghệ mới và cam kết chuyển giao công nghệ cho đối tác trong nước. Đồng thời, các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường năng lực đủ khả năng bắt tay ngang hàng với đối tác nước ngoài thì mới đủ năng lực để tiếp nhận công nghệ và đảm nhận các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị.

Hai là, làm chủ chuỗi giá trị mới. Đây là con đường tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới để chúng ta làm chủ chuỗi giá trị, không phụ thuộc vào nhà đầu bên ngoài. Thay vì đi theo những ngành mà các nước phát triển đã đi trước và nắm giữ các khâu then chốt, chúng ta nên tìm ra những sản phẩm thuộc lĩnh vực mới, mà lúc này tất cả các quốc gia đều có điểm xuất phát ngang nhau.

Những lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ số, hay thiết bị tự động là những ví dụ điển hình. Khi làm chủ toàn bộ chuỗi giá trị trong những lĩnh vực này, chúng ta sẽ trở thành những "người chủ" của các sản phẩm và công nghệ mới, từ đó vươn lên thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vấn đề mấu chốt để bước vào con đường này là phải dựa vào nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để hình thành những con đường phát triển mới mang tính đột phá và đi đầu về các sản phẩm mới. Đồng thời, phải đầu tư xây dựng thương hiệu, xúc tiến thị trường để liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu.

Để thực hiện cả hai con đường trên, chúng ta cần phải giải quyết ba  yếu tố cốt lõi: vốn để tăng cường năng lực, làm chủ công nghệ để nắm giữ các khâu cốt yếu, liên kết hình thành chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, phải có vai trò của Nhà nước thông qua các chính sách bảo hộ, đặt hàng và định hướng chiến lược. Điều kiện không thể thiếu là nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu đổi mới, sáng tạo, tiếp nhận và làm chủ về công nghệ. Đó là những điều kiện căn bản để chuyển từ nền kinh tế gia công sang nền kinh tế dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

VnEconomy

Chính phủ, các bộ, ngành và doanh nghiệp là ba trụ cột chính tạo sức bật vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vậy, việc “phân vai” cần thế nào, thưa ông?

Cuộc cách mạng về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI) cùng với những thế mạnh về nội lực cùng với khát vọng của dân tộc và sự cam kết mạnh mẽ của Nhà nước, đang là thời cơ và mở ra cơ hội cho Việt Nam bứt phá. Để tạo được đột phá phát triển, cần có những hành động thống nhất, đồng bộ từ các bộ, ngành, Nhà nước và doanh nghiệp.

Đối với các bộ, ngành, phải xây dựng chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm và thị trường cùng với các mô hình phát triển mới, chỉ ra phương thức ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vào phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm mới này. Đây là căn cứ quan trọng để định hướng cho doanh nghiệp phát triển.

Doanh nghiệp phải tăng cường năng lực, ứng dụng và tiến tới làm chủ những khâu then chốt trong công nghệ, phải tăng cường liên kết, hợp tác với với nhau để phân công nhau hình thành chuỗi cung ứng, tiếp cận và thay thế dần các yếu tố từ bên ngoài để nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị.

Nhà nước kiến tạo bằng một hệ thống khuôn khổ pháp luật và các chính sách hỗ trợ để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp hợp tác, liên kết để hình thành chuỗi cung ứng trong nước, hỗ trợ các hoạt động làm gia tăng giá trị trong nước. Đặc biệt, Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư và phát triển các hoạt động nghiên cứu khoa học, thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo làm tiền đề cho các hoạt động ứng dụng triển khai vào thực tiễn của các doanh nghiệp.

VnEconomy

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 39-2025 phát hành ngày 29/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam.html

VnEconomy
Asko AI Platform

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính:

VnEconomy