VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới
VnEconomy

VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới

icon-scroll

VnEconomy
VnEconomy

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, khu vực doanh nghiệp đóng vai trò là lực lượng chủ công trong quá trình phục hồi, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ yêu cầu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực quản trị, khả năng hội nhập quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam.

Năm 2024, khu vực doanh nghiệp đóng góp khoảng 61% GDP của nền kinh tế, trong đó khu vực doanh nghiệp trong nước chiếm 40,5%, khu vực doanh nghiệp FDI chiếm 20,4%; đóng góp khoảng 70% tổng thu ngân sách nhà nước từ sản xuất kinh doanh; khu vực doanh nghiệp FDI chiếm hơn 72% tổng kim ngạch xuất khẩu, giúp Việt Nam duy trì thặng dư thương mại và vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Khu vực doanh nghiệp tạo việc làm cho hơn 14 triệu lao động, chiếm 60% lực lượng lao động phi nông nghiệp.

VnEconomy

Doanh nghiệp không chỉ đóng góp lớn vào tăng trưởng và quy mô GDP, tạo việc làm, thu ngân sách, mà còn thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp là cầu nối trong hội nhập quốc tế thông qua hoạt động thương mại, đầu tư xuyên biên giới, hợp tác nghiên cứu và phát triển giúp doanh nghiệp trong nước tiếp cận công nghệ, vốn, hòa nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu.

Mặc dù giữ vai trò trung tâm của nền kinh tế, khu vực doanh nghiệp đang phải đối mặt với các nhóm thách thức mang tính cấu trúc và chu kỳ, chưa thấy hồi kết.

Một là, thể chế kinh tế chưa phù hợp với logic thị trường. Hệ thống pháp luật kinh doanh vẫn nặng tính quản lý hành chính, nhiều quy định can thiệp sâu vào quyền tự chủ của doanh nghiệp; chưa đảm bảo cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân về tiếp cận vốn, đất đai, dự án; phân bổ nguồn lực chưa hoàn toàn theo tín hiệu thị trường.

Nguyên nhân gây nên thách thức này là do di sản hành chính hóa và chưa hoàn thành quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đã để lại bộ máy, quy trình, mệnh lệnh hành chính trong chỉ đạo kinh tế và tư duy “xin - cho” ở nhiều cấp, dẫn tới quy định chồng chéo, tiền kiểm và can thiệp vào hoạt động kinh tế. Đây là lý do vì sao Nghị quyết 68-NQ/TW ban hành ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) nhấn mạnh phải “hoàn thiện thể chế, phải bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng”.

Pháp luật và văn bản hướng dẫn chưa đồng bộ, luật đã sửa đổi nhưng nghị định, thông tư hướng dẫn thường chậm, chưa tương thích, tạo khoảng trống thực thi và rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp; chưa thực sự trao quyền tự chủ tối đa cho doanh nghiệp.

Cùng với đó, nhiều doanh nghiệp không có năng lực vận dụng linh hoạt cơ chế thị trường, trông chờ vào sự ưu đãi, hoặc mối quan hệ hành chính.

Hai là, thị trường chưa đồng bộ, kém minh bạch. Các thị trường nhân tố chưa được hình thành và phát triển đồng bộ. Thị trường vốn phụ thuộc vào ngân hàng thương mại; thị trường trái phiếu doanh nghiệp và kênh vốn cổ phần chưa đủ sâu để phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đổi mới công nghệ. Thị trường khoa học - công nghệ, chuyển giao công nghệ, dịch vụ hỗ trợ còn sơ khai, cản trở thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Thị trường nhân tố sản xuất thiếu cơ chế liên thông và minh bạch thông tin, dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các loại hình và quy mô doanh nghiệp. Cùng với đó, nhiều doanh nghiệp không có chiến lược khai thác thị trường, hoạt động chủ yếu dựa vào mối quan hệ và thị trường ngách.

Ba là, khó đoán định về chính sách. Chính sách thường thay đổi nhanh do phải ứng phó với cú sốc bên ngoài, gây khó khăn trong xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các văn bản hướng dẫn thi hành nhiều khi ban hành chậm, không thống nhất giữa các bộ, ngành, trong nhiều trường hợp còn mâu thuẫn, gia tăng rủi ro pháp lý. Một số lĩnh vực chịu tác động “nới - siết” đột ngột, thiếu lộ trình đánh giá tác động và truyền thông cho doanh nghiệp.

Thiếu cơ chế tham vấn doanh nghiệp trước khi ban hành hoặc thay đổi chính sách là nguyên nhân gây nên thách thức này. Cùng với đó, doanh nghiệp chưa đầu tư thỏa đáng vào bộ phận pháp chế, dự báo rủi ro chính sách và nghiên cứu thị trường.

VnEconomy

Bốn là, thủ tục hành chính phức tạp. Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đẩy mạnh cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính, tuy vậy các thủ tục về đầu tư, đất đai, môi trường… vẫn chồng chéo, kéo dài; phân quyền và trách nhiệm chưa rõ ràng; chi phí tuân thủ pháp luật cao hơn mức trung bình của ASEAN 4; một số dịch vụ công trực tuyến vẫn yêu cầu xử lý thủ công ở nhiều khâu.

Cải cách hành chính còn hình thức; cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan nhà nước chưa hiệu quả dẫn tới trùng lặp hồ sơ; một số thủ tục đưa ra để phòng ngừa rủi ro quản lý đã vô tình tạo ra rào cản cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm và nhân sự chuyên trách về pháp lý, thủ tục nên thời gian xử lý kéo dài.

Theo khảo sát Niềm tin kinh doanh 2025, do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thực hiện, phản ánh “khó khăn trong thực hiện thủ tục hành chính và đáp ứng các quy định pháp luật” đã vượt qua nhiều vấn đề khác, trở thành thách thức lớn nhất của khu vực doanh nghiệp, với 69,1% doanh nghiệp lựa chọn. Điều này cho thấy, dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục, nhưng hiệu quả thực thi vẫn là một dấu hỏi lớn.

Năm là, khó khăn về nguồn lực, hạn chế về năng lực cạnh tranh và công nghệ. Doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng do yêu cầu thế chấp cao, lãi suất biến động. Hạ tầng logistics và năng lượng ở một số khu vực chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp, rơi vào tình trạng thiếu vốn cho đổi mới công nghệ; tỷ lệ doanh nghiệp thường xuyên chi cho hoạt động R&D thấp, chỉ dưới 10%.

Năng suất lao động của Việt Nam năm 2022 chỉ bằng 11,4% mức năng suất lao động của Singapore; 35,4% của Malaysia. So với các nền kinh tế phát triển có quy mô lớn, năng suất lao động của Việt Nam bằng 15,4% của Mỹ; 24,7% của Hàn Quốc.

Thách thức này xuất hiện do nền kinh tế chưa hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hoàn chỉnh; thị trường khoa học, công nghệ chưa hoạt động hiệu quả. Cùng với đó, hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt động R&D còn hạn chế, thiếu chính sách ưu đãi cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Trình độ quản trị, năng lực đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ mới và tiêu chuẩn quốc tế của doanh nghiệp còn yếu.

Sáu là, hạn chế về tính độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế và áp lực phát triển bền vững. Sản xuất trong nước phụ thuộc rất nhiều vào nguyên, nhiên liệu nhập khẩu, do vậy dễ bị gián đoạn chuỗi cung ứng. Doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp FDI và hàng nhập khẩu, đồng thời đối mặt với nguy cơ bị áp thuế phòng vệ thương mại tại các thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt áp lực từ chi phí sản xuất xanh, tuần hoàn vượt quá khả năng của nhiều doanh nghiệp; cùng với đó là yêu cầu tuân thủ tiêu chuẩn môi trường - xã hội - quản trị (ESG) ngày càng cao từ các đối tác quốc tế.

Thách thức này xuất phát từ biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu; các hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và biện pháp phòng vệ thương mại của thị trường xuất khẩu ngày càng khắt khe. Chính sách hỗ trợ sản xuất xanh trong nước chưa đủ mạnh, thiếu hướng dẫn kỹ thuật và ưu đãi tài chính.

Cùng với đó, doanh nghiệp phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu từ một số ít thị trường, thiếu chiến lược đa dạng hóa nguồn cung; khả năng đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, truy xuất nguồn gốc của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Nhận thức về lợi ích dài hạn của phát triển xanh, bền vững chưa phổ biến.

VnEconomy

Với tư duy nhạy bén, nắm bắt kịp thời các thách thức, khẩn trương tạo dựng cơ hội cho phát triển; với tinh thần đổi mới mạnh mẽ tư duy, quan điểm phát triển, thực hiện cải cách, đổi mới toàn diện đồng bộ của Đảng và Nhà nước đã tạo ra “cơ hội vàng” cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phục hồi, phát triển nhanh, bền vững trong thập niên tới.

Thứ nhất, cơ hội về khung pháp lý thuận lợi, tiếp cận nguồn lực công bằng. Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đặt mục tiêu đến năm 2035 khu vực này đóng góp 65-70% GDP, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Nghị quyết 68 mở ra cơ hội cho doanh nghiệp được hoạt động trong môi trường pháp lý thuận lợi hơn với việc Nhà nước cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch hóa chính sách, giảm chi phí tuân thủ; tạo cơ hội công bằng hơn cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực về tín dụng, đất đai, khoa học và công nghệ, nhân lực.

Đổi mới tư duy và quan điểm phát triển kinh tế của Đảng thể hiện qua Bộ tứ trụ cột chiến lược là “lá chắn chính sách” giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn, tạo động lực phục hồi sau các cú sốc kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, khích lệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, khuyến khích mô hình kinh doanh mới, sản phẩm công nghệ cao, thúc đẩy liên kết vùng và chuỗi giá trị.

Thứ hai, cơ hội từ chuyển đổi số, áp dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi xanh. Ứng dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI) và chuyển đổi xanh sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản trị, sản xuất, logistics, dự báo xu hướng sản xuất, tiêu dùng, tiếp cận và mở rộng thị trường, giảm chi phí, thực hiện thương mại điện tử xuyên biên giới, dịch vụ trực tuyến, đổi mới mô hình kinh doanh.

Thực hiện công nghệ xanh sẽ đáp ứng yêu cầu ESG giúp doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu của các thị trường Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản,… tránh rào cản thuế carbon, giảm lãng phí nguyên liệu, tiết kiệm năng lượng, nâng cao uy tín thương hiệu hàng hóa Việt Nam.

Tận dụng thành công cơ hội này sẽ giúp doanh nghiệp trong nước rút ngắn khoảng cách công nghệ so với các nước phát triển, thích ứng với xu thế toàn cầu hóa bền vững.

VnEconomy

Thứ ba, cơ hội từ hội nhập quốc tế sâu rộng. Việt Nam đã ký 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) trong đó có nhiều FTA thế hệ mới tạo cơ hội vàng cho doanh nghiệp mở rộng thị trường với thuế suất ưu đãi, tạo lợi thế cạnh tranh tốt hơn cho hàng hóa Việt Nam tại các thị trường lớn, phát triển. Đồng thời, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực chất lượng thông qua nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại với chi phí thấp hơn.

Hội nhập đòi hỏi doanh nghiệp phải cải thiện chất lượng hoạt động, minh bạch tài chính, trách nhiệm xã hội, từ đó nâng cao uy tín, năng lực quản trị. Kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng là bệ phóng cho doanh nghiệp mở rộng quy mô, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng vị thế kinh tế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới.

Thứ tư, cơ hội từ xu hướng tiêu dùng trong nước. Kinh tế nước ta có thị trường trên 100 triệu dân, với GDP bình quân đầu người năm 2024 đạt 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023. Tầng lớp trung lưu - động lực tiêu dùng quan trọng của nền kinh tế - đã hình thành và phát triển nhanh, ấn tượng trong những năm qua.

Tỷ lệ tầng lớp trung lưu năm 2022 ở mức 13% dân số và dự báo tăng lên 26% vào năm 2026. Đây là cơ hội để doanh nghiệp mở rộng thị trường nội địa với sức mua và nhu cầu đa dạng từ tiêu dùng hàng hóa thiết yếu đến hàng hóa và dịch vụ cao cấp; cơ hội để doanh nghiệp tận dụng xu hướng tiêu dùng mới của nền kinh tế trong thời gian tới khi người dân tập trung vào trải nghiệm cá nhân, ưu tiên cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe, giải trí và thư giãn phù hợp lối sống của trào lưu công nghệ hiện đại.

Đặc biệt, bối cảnh hiện nay tạo cơ hội để doanh nghiệp tạo dựng và phát triển thương hiệu nội, thay thế hàng nhập khẩu trong nhiều phân khúc. Trong bối cảnh thị trường quốc tế biến động, thị trường nội địa sẽ thực hiện vai trò là “đệm an toàn” và động lực để doanh nghiệp duy trì, phát triển, tái đầu tư mở rộng sản xuất.

Thứ năm, cơ hội nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Khi Mỹ công bố áp mức thuế quan đối ứng đối với các quốc gia đã tác động đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Đối với Việt Nam, sản phẩm gia công chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ bị Mỹ xem xét kỹ về nguồn gốc xuất xứ. Việc hàng hóa sản xuất tại Việt Nam nhưng sử dụng phần lớn linh kiện từ nước ngoài sẽ không được ưu đãi thuế như trước.

Để duy trì khả năng cạnh tranh, giữ vững thị phần tại Mỹ, các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp FDI phải nâng tỷ lệ nội địa hóa từ vùng nguyên liệu đến khâu sản xuất, điều này mở ra cơ hội cho ngành công nghiệp hỗ trợ của nước ta. Đây cũng là cơ hội khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng mạnh để xây dựng nhà máy phụ trợ, nhà máy sản xuất nguyên liệu, mạng lưới vùng trồng được chứng nhận.

Chính sách thuế quan đối ứng đã tạo ra khoảng trống trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Khi chuẩn bị tốt, Việt Nam sẽ không chỉ là điểm đến thay thế, mà còn có cơ hội nắm giữ vai trò cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; không chỉ lắp ráp mà còn cung cấp nguyên, vật liệu, dịch vụ kỹ thuật, trung tâm R&D khu vực, đội ngũ nhân lực có kỹ năng cao.

VnEconomy

Để tận dụng thành công, hiệu quả các cơ hội, Đảng và Nhà nước cần khẩn trương xây dựng Nhà nước pháp quyền có năng lực kiến tạo phát triển, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược, quản trị hiệu quả, phục vụ nhân dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, Chính phủ và Quốc hội tập trung cải cách, đổi mới thể chế kinh tế đảm bảo chất lượng, sự phù hợp với thực tiễn của các quy định hiện hành; nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong thực thi pháp luật; kiểm soát chất lượng của những quy định mới, không tạo ra xung đột chính sách và cản trở sự phát triển. Cải cách, đổi mới thể chế kinh tế thực sự vận hành theo logic của kinh tế thị trường hiện đại nhằm khai mở toàn bộ tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới.

Trong thời gian qua, các chủ trương lớn của Đảng đã đi đúng hướng, đáp ứng mong mỏi của cộng đồng doanh nghiệp. Vấn đề cốt lõi hiện nay không chỉ còn nằm ở định hướng, mà là năng lực và hiệu quả thực thi. Việc nhanh chóng đưa các nghị quyết vào cuộc sống, biến các chủ trương thành những chính sách cụ thể, dễ đo lường và dễ tiếp cận, chính là chìa khóa để biến cơ hội thành hiện thực, tạo dựng các động lực tăng trưởng mới, khích lệ khát vọng kinh doanh, xóa bỏ các điểm nghẽn cho doanh nghiệp.

Để có thể chuyển hóa cơ hội thành năng lực cạnh tranh thực chất, đòi hỏi cộng đồng doanh nghiệp chủ động tái cấu trúc mô hình sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới; chủ động tham gia các chương trình đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp, kỹ năng sản xuất, ứng dụng AI; tối ưu hóa phương thức sản xuất kinh doanh; áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ xanh, giảm phát thải; mở rộng liên kết chuỗi giá trị, đặc biệt trong công nghiệp hỗ trợ; tăng cường hoạt động R&D để tạo ra hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng cao; đồng thời, nâng chuẩn quản trị, minh bạch thông tin và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế.

Muốn tận dụng hiệu quả cơ hội từ hội nhập quốc tế sâu rộng, cộng đồng doanh nghiệp cần nắm rõ quy tắc xuất xứ trong các FTA; chuẩn hóa sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, đẩy mạnh kết nối với các đối tác chiến lược và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nhằm đáp ứng xu hướng tiêu dùng mới của thị trường trong nước và quốc tế, doanh nghiệp cần đẩy mạnh nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu. Tập trung xây dựng thương hiệu nội địa mạnh, đáp ứng nhu cầu trải nghiệm của người tiêu dùng; đầu tư vào dịch vụ hậu mãi. Khai thác thế mạnh của thương mại điện tử và phương thức bán hàng đa kênh.

Để biến cơ hội thành lợi thế bền vững trong nâng cao tính độc lập tự chủ và vị thế kinh tế Việt Nam, Chính phủ, các địa phương cần có tầm nhìn chiến lược dài hạn, có chính sách hỗ trợ bài bản, quy hoạch, tiêu chuẩn hóa các ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ nhu cầu nội địa hóa của các tập đoàn lớn và các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam; xây dựng vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc quốc tế.

VnEconomy

Đặc biệt, Chính phủ cần nâng cấp, minh bạch và số hóa hệ thống pháp lý về truy xuất nguồn gốc, cấp phép xuất xứ, tạo nền tảng để doanh nghiệp trong nước phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu của khu vực doanh nghiệp FDI và đủ năng lực chủ động tham gia trực tiếp vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Khu vực doanh nghiệp trong nước cần rà soát chuỗi cung ứng, cải tiến công nghệ, minh bạch hóa sản xuất và số hóa chứng từ xuất xứ hàng hóa, tận dụng tối đa cơ hội để nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, sẵn sàng đối phó và thích ứng với những cú sốc kinh tế từ bên ngoài.

Cùng với đó, doanh nghiệp cần khai thác triệt để các ưu thế từ Nghị quyết 68, tận dụng xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng, gia tăng nhu cầu nội địa và hội nhập sâu rộng để mở rộng thị trường, thu hút nguồn lực, củng cố vị thế trên cả thị trường trong nước và quốc tế. Đây không chỉ là yêu cầu thích ứng mà còn là chiến lược dài hạn để hình thành khu vực doanh nghiệp Việt Nam tự chủ, hiện đại, đủ sức cạnh tranh toàn cầu.

Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đối diện với những thách thức gay gắt về thể chế, thị trường, nguồn lực và cạnh tranh quốc tế, mà còn đứng trước những cơ hội hiếm có từ cải cách chính sách, tiến bộ công nghệ, hội nhập sâu rộng và nhu cầu gia tăng của thị trường nội địa có quy mô lớn. Nghị quyết 68 hướng đến tạo ra khung thể chế quan trọng, định hướng cho sự phát triển khu vực doanh nghiệp theo tinh thần kiến tạo, minh bạch, hội nhập, qua đó tiếp thêm động lực cho các doanh nhân trong nỗ lực đổi mới mô hình kinh doanh, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh và phát triển bền vững.

Điểm sáng rõ nét nhất chính là bản lĩnh và tư duy thích ứng của đội ngũ doanh nhân Việt Nam - những người không ngừng học hỏi, dám nghĩ, dám làm, kiên trì vượt qua rào cản để giữ doanh nghiệp tồn tại, phục hồi và vươn lên. Sự chủ động nắm bắt cơ hội từ chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, công nghệ xanh, cùng khả năng tận dụng các FTA thế hệ mới và xu hướng tiêu dùng nội địa đã và đang tạo ra sức bật mới cho tăng trưởng ổn định trong dài hạn.

Tương lai phát triển của doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc vào sự đồng hành và duy trì mạnh mẽ trong cải cách quyết liệt, hiệu quả của Đảng và Nhà nước, sự gắn kết của cộng đồng doanh nghiệp và trên hết là tinh thần đổi mới sáng tạo, khát vọng vươn xa của từng doanh nhân. Vượt qua thách thức hôm nay không chỉ là câu chuyện của sự sinh tồn mà còn là nền tảng để khu vực doanh nghiệp trở thành trụ cột vững chắc, đóng góp ngày càng lớn vào mục tiêu phục hồi, ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

VnEconomy

Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-33.html

VnEconomy
VnEconomy

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: