Tiếp vốn và niềm tin chính sách
VnEconomy tổ chức giao lưu trực tuyến về tác động của chính sách tiền tệ trước yêu cầu tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
VnEconomy tổ chức giao lưu trực tuyến
giữa những người trong cuộc, chuyên gia độc lập với bạn đọc về tác động
của chính sách trước yêu cầu tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
Từ tháng 8/2011, chủ trương hạ lãi suất cho vay đã được Ngân hàng Nhà nước đặt ra. Từ đầu năm đến nay, cơ quan này đã 5 lần giảm các lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động. Lãi suất cho vay đã giảm đáng kể so với đầu năm. Cùng với đó là chủ trương hạ lãi suất cho các khoản vay cũ về tối đa 15%/năm.
Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng vẫn chưa thể cải thiện rõ rệt, nhiều doanh nghiệp vẫn khó vay vốn và còn nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.
Trước thực tế trên, có quan điểm điểm cho rằng, việc hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời là cần thiết nhưng chỉ nên tập trung ở những đối tượng tốt và có khả năng tồn tại, không nên cứu những doanh nghiệp đã và đang có nguy cơ phá sản; hay nguồn tín dụng cần tăng cường tính chọn lọc trước xu hướng nợ xấu tăng lên.
Quan điểm trên cũng đặt ra vấn đề cần đánh giá cụ thể hiệu quả, trở ngại và hạn chế của các chính sách vĩ mô nói chung và các biện pháp mà Ngân hàng Nhà nước triển khai đã và đang triển khai nói riêng.
Nhằm tạo diễn đàn chia sẻ từ tiếng nói người trong cuộc, ý kiến của chuyên gia độc lập với bạn đọc trong và ngoài trước về những nội dung trên, VnEconomy tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề “Tiếp vốn và niềm tin chính sách”, diễn ra từ 14h00 - 16h30 ngày 10/8/2012, với sự tham gia của các diễn giả:
- Bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Chính sách Tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
- Ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tiền tệ Quốc gia
- Ông Nguyễn Văn Thắng, Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank)
- Ông Nguyễn Đại Lai, chuyên gia tài chính độc lập
Đỗ Thắng Toàn - Nam 36 tuổi - Tư vấn đầu tư:
Xin hỏi các diễn giả: Số liệu thống kê cho thấy lượng vốn đã được bơm ròng vào nền kinh tế kể từ đầu năm đến nay là rất lớn trong khi nền kinh tế lại không thể hấp thu được lượng vốn này. Đây có phải là tín hiệu cho thấy khả năng sẽ bùng phát lạm phát trong giai đoạn kế tiếp hay không khi chu kỳ lạm phát cao - tăng trưởng cao, lạm phát thấp - tăng trưởng thấp của kinh tế Việt Nam đã liên tục lặp lại trong nhiều năm qua?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Trước hết phải khẳng định ngân hàng cũng là một doanh nghiệp. Trong đó khối doanh nghiệp sản xuất là khách hàng của ngân hàng. Doanh nghiệp lao đao thì ngân hàng cũng khó mà bình an. Do đó doanh nghiệp lao đao vật lộn với khó khăn thì ngân hàng cũng bất an theo.
Nợ xấu xảy ra trước hết do người sử dụng vốn, bản thân ngân hàng cũng phải có trách nhiệm về quy trình xét duyệt thầm định và quản trị rủi ro đối với món vay của mình.
Tuy nhiên bản thân doanh nghiệp cũng không bao giờ muốn món vay trở thành nợ xấu. Vì vậy có thể hiểu rằng sức hấp thụ đầu ra của nền kinh tế cũng có vấn đề.
Đó là những vấn đề liên quan đến vĩ mô như: cơ cấu kinh tế bất hợp lý giữa xuất và nhập khẩu, giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa công nghiệp và nông nghiệp…Không đủ sức hấp thụ với việc sản xuất thực tiễn của các loại hình doanh nghiệp tương ứng. Cho nên đúng như bạn nói lỗi để nợ xấu lớn là do cả ba bên với những hàm lượng khác nhau ở những thời điểm khác nhau.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp, xét trên các yếu tố: khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước, lạm phát, thực lực của các tổ chức tín dụng…?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc xác định lãi suất ở mức nào là phù hợp thì còn phụ thuộc vào các diễn biến kinh tế vĩ mô. Các mức trần lãi suất huy động và cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước là dựa trên kỳ vọng lạm phát cả năm 2012 là 7 – 8%, kỳ vọng tỷ giá tăng không quá 2 – 3%.
Hiện nay, lạm phát tháng 7 tăng 5,35% so với cùng kỳ năm 2011 nhưng trung bình 7 tháng đầu năm 2012 so với 7 tháng đầu năm 2011 vẫn tăng ở mức 11,2%. Do vậy, lãi suất có tiếp tục giảm hay không cũng cần phải được cân nhắc cẩn trọng dựa trên xu hướng giảm lạm phát có ổn định hay không.
Nếu lạm phát tiếp tục giảm sâu thì Ngân hàng Nhà nước sẽ cân nhắc giảm lãi suất. Mức giảm lãi suất bao nhiêu cũng cần phải được tính toán cụ thể đảm bảo lợi ích hài giữa người gửi tiền, người vay và của tổ chức tín dụng.
Thuy - Nữ 26 tuổi - Analyst:
Tôi có câu hỏi dành cho hai ngân hàng lớn của Việt Nam là Vietcombank và VietinBank: Thực trạng hoạt động giải ngân tín dụng chính tại ngân hàng các ông trong 7 tháng đầu năm nay như thế nào trong tổng thể chung 0,57% của toàn hệ thống ngân hàng? Mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm nay của các ông như thế nào và đang có giải pháp gì để hiện thực hóa mục tiêu đó cũng như đồng hành cùng các cơ quan quản lý trong giai đoạn hiện nay?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Hoạt động tín dụng của Vietinbank trong 7 tháng đầu năm hiện nay vẫn -2%. Tuy nhiên, so với kết quả của tháng 6 kết quả đã hồi phục được 3%.
Vừa qua trong tháng 6, đầu tháng 7 Vietinbank đã đưa ra 11 chương trình kích thích tín dụng, với lãi suất cho vay rất thấp, từ 9% - 12% cho rất nhiều đối tượng khách hàng; đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu.
Hiện nay Ngân hàng Công thương đang tiếp tục nghiên cứu và đưa ra một số chương trình cho vay ưu đãi khác, chúng tôi cũng tin tưởng từ nay tới cuối năm sự hấp thụ vốn của các doanh nghiệp sẽ khá hơn. Dự kiến mức tăng trưởng tín dụng cuối năm của Ngân hàng Công thương sẽ là 10% - 12%.
Huỳnh Nhựt - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Em là sinh viên ngành kinh tế sắp ra trường nhưng lo lắng cho nền kinh tế của Việt Nam quá. Một nền kinh tế dễ bị tổn thương, ngành ngân hàng đã được Chính phủ bảo lãnh ưu tiên rất nhiều, nhưng những người điều hành ngành ngân hàng vì lợi ích đã mạnh tay cho vay ở những lĩnh vực rất nguy hiểm khi bây giờ gặp khó khăn thì bắt doanh nghiệp, Nhà nước phải gánh chịu. Em thấy đó không công bằng, trong khi doanh nghiệp phải vất vả vật lộn với những khó khăn, không biết ngân hàng có nhìn thấy những điều đó không, sao thấy họ vô cảm quá. Em xin hỏi các vị diễn giả trách nhiệm này thuộc về ai? Đó là lỗi của doanh ngiệp hay ngân hàng hay là lỗi của cả nền kinh tế? Em là sinh viên cũng chưa hiểu sâu xa về vấn đề vĩ mô, cũng như người dân họ chỉ quan tân là đến lúc nào họ mới tin tưởng vào cuộc sống này. Hiện nay đã quá khó khăn rồi.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Trước hết phải thấy ngân hàng là một trung gian tài chính kinh doanh trên cơ sở thu hút vốn từ người có vốn nhàn rỗi để cho vay và làm dịch vụ này để thu phí. Chính vì vậy cho nên ngân hàng đồng thời có hai loain khách hàng mà lợi ích xung đột nhau: người gửi muốn lãi cao và ngược lại.
Đây là nguyên tắc của thị trường.
Lợi ích chia đều cho cả ba bên (người gửi, ngân hàng và doanh nghiệp), tuy nhiên rủi ro chủ yếu có hai bên phải chịu là ngân hàng và doanh nghiệp. Trong khi người gửi tiền được chính phủ bảo hiểm 100% tiền gửi.
Có thể nói lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động có hiệu quả của người vay, nói cách khác rủi ro tín dụng là rủi ro chủ yếu của ngân hàng.
Hiện nay nợ xấu tăng rất cao bởi nhiều lý do: rủi ro chính sách, rủi ro thị trường, rủi ro quản lý (cả phía doanh nghiệp và ngân hàng)... Vì vậy khó có thể nói hoàn toàn là do phía nào.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng doanh nghiệp luôn muốn vay được vốn từ ngân hàng và trách nhiệm của ngân hàng là giám sát các khoản vay đấy. Đồng thời cả ngân hàng và doanh nghiệp cũng cần phải có những thông tin, dự báo để tính toán hiệu quả đầu tư của mình. Đây là điểm rất yếu của cả doanh nghiệp và ngân hàng ở Việt Nam.
Vào những thời điểm kinh tế thuận lợi, doanh nghiệp đổ xô đầu tư và ngân hàng cũng dễ dãi cho vay, họ không hề biết những gì đang chờ đợi họ phía trước. Thị trường buộc mọi người phải trả giá cho những khoản đầu tư sai lầm của mình.
Nhiều doanh nghiệp thậm chí đầu tư chủ yếu vào bất động sản với kỳ vọng kiếm lời nhanh chóng và rủi ro lớn nhất chính là ở thị trường này khi giá bất động sản giảm. Chính vì vậy, không nên đổ lỗi cho một bên nào trong câu chuyện vay và cho vay và đó cũng là quan điểm của Chính phủ khi xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng, tức là buộc cả ngân hàng và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm và tổn thất có thể có.
Nếu Chính phủ quan tâm gỡ bỏ những tắc nghẽn về tín dụng để cho dòng vốn hoạt động bình thường trở lại và trên nền tảng đó doanh nghiệp và ngân hàng mới có thể phục hồi được.
Nói tóm lại, nợ xấu lớn như hiện nay có khả năng hủy hoại nền kinh tế rất nghiêm trọng và Chính phủ đang tìm cách để xử lý.
Nguyen Nguyen An - Nam 35 tuổi - Nđt:
Xin được hỏi thêm các diễn giả: ở thời điểm này đã có thể dự tính được các chính sách vĩ mô, chính sách tiền tệ cho năm 2013 chưa? Nếu chưa thì nên theo hướng nào? Cá nhân tôi e rằng lạm phát sẽ quay trở lại vào cuối năm vì lãi suất đã giảm rất nhanh, nhiều mặt hàng ảnh hưởng lớn liên tiếp tăng giá... Sự e ngại đó có đúng không? Xin cảm ơn các diễn giả.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Đúng là hiện này các chỉ tiêu kinh tế của năm 2013 còn đang được các bộ ngành xây dựng và đến khoảng tháng 10 năm nay, tại kỳ họp Quốc hội mới được thông qua chính thức. Việc bạn e ngại lạm phát quay trở lại vào cuối năm cũng là những điều mà chúng tôi đã tính tới. Tuy nhiên, từ nay đến cuối năm, Ngân hàng Nhà nước cũng như các bộ ngành phải theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều chỉnh cho phù hợp, đảm bảo lạm phát không bùng phát trở lại.
Thu Cúc - Nữ 39 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Từ 2008 đến nay, mỗi khi lạm phát tăng, Ngân hàng Nhà nước lại thắt chặt, đến khi doanh nghiệp kêu khó, ngân hàng kêu khó Ngân hàng Nhà nước lại nới lỏng và lạm phát lại bùng lên. Lần này, có vẻ như đang lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Có ý kiến cho rằng, không thể kéo dài tình trạng đầu tư dàn trải, lấy vốn làm chỗ dựa cốt yếu cho tăng trưởng, nhất là khi mà quy mô tín dụng đã gấp trên 1,2 lần so với GDP. Vì thế, trước những khó khăn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên hỗ trợ cho những doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp có cơ hội trụ được qua khó khăn, còn những doanh nghiệp ốm yếu, những ngành hàng đầu tư phá vỡ quy hoạch như thép, cần phải để quá trình sàng lọc tự nhiên đào thải. Ý kiến ông/bà như thế nào?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Việc nới lỏng tiền tệ và tín dụng có vẻ như đang được các nhà hoạch định chính sách quan tâm, có thể gây nên lạm phát hay không là một trong những cân nhắc lớn nhất của chính phủ hiện nay.
Trước hết cần thấy năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng phương thức điều hành tiền tệ hoàn toàn mới khác với từ trước lại nay. Đó là điều hành theo lạm phát mục tiêu. Ngân hàng Nhà nước không xin Chính phủ hạn mức phát hành tiền như những năm trước mà đề nghị cho phép chủ động bơm hút tiền nhằm đảm bảo mục tiêu lạm phát đề ra, hay nói cách khác Ngân hàng Nhà nước nhìn lạm phát kỳ vọng để bơm và hút tiền.
Với cách làm này, dường như Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn độc lập với mong muốn tăng trưởng hoặc thu hẹp tín dụng của Chính phủ và đó là cách điều hành tiền tệ hiện đại theo thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, khi Chính phủ có dấu hiệu nới lỏng ngân sách thậm chí mong muốn nới lỏng tín dụng thì Ngân hàng Nhà nước sẽ nhìn vào lạm phát để quyết định.
Lạm phát năm nay có thể xuống rất thấp và nó có thể tăng lên ở mức cao hơn vào năm tới theo nguyên tắc "con lắc thị trường" và sẽ ổn định dần trong những năm tiếp theo. Ví dụ 2012, lạm phát có thể ở mức 5% và 2013, lạm phát có thể ở mức 9-11% và đó là điều bình thường.
Tôi tin rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ không dễ dàng nới lỏng tiền tệ như những năm trước đây.
Phạm Anh Tôn - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cháu chào cô Hồng! Hiện nay như cháu theo dõi thì chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là hạ các khoản vay cũ xuống 15% để hỗ trợ doanh nghiệp. Vậy thì việc này thực tế đã đi vào thực tiễn chưa? Vì cháu thấy có rất nhiều doanh nghiệp vẫn kêu ca chưa có thông báo gì, hơn nữa việc thực hiện “lời kêu gọi” này chủ yếu đối tượng ngân hàng được nhắm đến là các ngân hàng thương mại nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần khác thì Ngân hàng Nhà nước có cách gì để yêu cầu hạ lãi suất xuống 15% không ạ? Hơn nữa việc hạ lãi suất các khoản vay cũ xuống thì ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại, vậy thì có cách nào vừa tháo gỡ được khó khăn cho doanh nghiệp lại vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận của ngân hàng không ạ? Cháu xin cám ơn.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc giảm lãi suất của các khoản vay cũ về mức tối đa là 15% đã và đang được các tổ chức tính dụng ủng hộ và triển khai mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 3 tuần từ 15/7, tỷ trọng dư nợ cho vay có lãi suất trên 15% đã giảm xuống còn 29%, giảm khoảng 87% so với trước 15/7.
Thời gian tới Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đề nghị các ngân hàng thương mại cổ phần phối hợp với doanh nghiệp ra soát các khoản vay để có thể giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất này sẽ làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng nhưng là cũng cần thiết để khơi thông dòng vốn tín dụng, làm cho khách hàng tin tưởng và gắn bó hơn với ngân hàng.
Việc giảm lãi suất các khoản vay cũ có thể chậm hơn ở một số ngân hàng thì doanh nghiệp và người dân cũng nên cảm thông với những ngân hàng này vì bản thân họ cũng đang gặp khó khăn về tài chính.
Vũ Kim Oanh - Nữ 31 tuổi - NVKD:
Tôi vừa đọc tin thấy Ngân hàng Nhà nước đã cho tăng trưởng tín dụng một số ngân hàng lên 25 - 27%. Xin được hỏi là như vậy thì vốn có đến được với doanh nghiệp nhiều hơn không? Đầu năm thắt chặt chỉ tiêu, giữa năm nới rộng như vậy có hợp lý và thiếu nhất quan không? Xin cám ơn.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Vốn có đến được với doanh nghiệp không thì phụ thuộc vào các doanh nghiệp đó có đáp ứng đủ các quy định của pháp luật hiện hành về cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không. Việc cho phép một số tổ chức tín dụng được tăng trưởng tín dụng 25 – 27% là phù hợp với điều kiện tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đang rất thấp. Để đảm bảo việc mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn thì Ngân hàng Nhà nước chỉ cho phép đối với các tổ chức tín dụng có đề nghị và có hoạt động tài chính lành mạnh.
Thu Cúc - Nữ 39 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Từ 2008 đến nay, mỗi khi lạm phát tăng, Ngân hàng Nhà nước lại thắt chặt, đến khi doanh nghiệp kêu khó, ngân hàng kêu khó Ngân hàng Nhà nước lại nới lỏng và lạm phát lại bùng lên. Lần này, có vẻ như đang lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Có ý kiến cho rằng, không thể kéo dài tình trạng đầu tư dàn trải, lấy vốn làm chỗ dựa cốt yếu cho tăng trưởng, nhất là khi mà quy mô tín dụng đã gấp trên 1,2 lần so với GDP. Vì thế, trước những khó khăn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên hỗ trợ cho những doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp có cơ hội trụ được qua khó khăn, còn những doanh nghiệp ốm yếu, những ngành hàng đầu tư phá vỡ quy hoạch như thép, cần phải để quá trình sàng lọc tự nhiên đào thải. Ý kiến ông/bà như thế nào?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Đúng như băn khoăn của bạn, nước ta đang điều hành nền kinh tế thị trường nhưng bằng đồng thời cả hai công cụ: hành chính và thị trường, thậm chí công cụ hành chính còn mang tính trội nhiều hơn.
Nên không thể tránh khỏi những cú đột biến của chính sách tác động vào quy luật của thị trường, bao gồm cả những tác động xuôi chiều và ngược chiều, cả sự không đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa…làm cho tình trạng lạm phát luôn có xu hướng bùng lên. Đương nhiên mỗi khi bị lạm phát bùng lên thì các cấp các ngành lại ra sức chống lạm phát.
Lẽ ra nếu tuân thủ đúng các quy luật của thị trường về lưu thông tiền tệ, thanh tóan thì cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất (nếu không muốn nói là duy nhất) phải là Ngân hàng Trung ương. Kể cả những đầu tư từ ngân sách cũng phải tuân theo chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên ở Việt Nam ngân hàng Nhà nước chưa hoàn tòan là ngân hàng Trung ương của nền kinh tế thị trường nên việc chống lạm phát vẫn còn là việc chung của Chính phủ, của các Bộ, ngành, địa phương.
Về giải pháp, đúng là không nên cứu đồng loạt đối với tất cả các tình trạng doanh nghiệp, mà chỉ nên tập trung vốn, thị trường cho các doanh nghiệp có khả năng trụ được và phát triển. Đối với những doanh nghiệp ở tình trạng yếu kém không thể đứng vững ngay cả khi được tăng cường hỗ trợ vốn thì nên cho phá sản. Hoặc như bạn nói là để cho quy luật thị trường sàng lọc và đào thải.
Trong chiến lược trung và dài hạn nên sớm chuyển mô hình hoạt động của ngân hàng Nhà nước hiện nay sang mô hình ngân hàng Trung ương của nền kinh tế thị trường – theo đó, ngân hàng Trung ương phải lấy mục tiêu giữ ổn định giá trị sức mua đối nội, đối ngoại của đồng nội tệ là mục tiêu chiến lược.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp, xét trên các yếu tố: khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước, lạm phát, thực lực của các tổ chức tín dụng…?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Lãi suất biến động hoàn toàn không theo mong muốn của chúng ta mà đó là một loại giá cả vĩ mô quan trọng và có tính khách quan, thị trường. Từ giữa năm 2011 lại nay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ rất lớn, khiến cho dân chúng, doanh nghiệp và các ngân hàng chuyển tài sản từ ngoại tệ sang nội tệ để hưởng lãi suất cao.
Tuy nhiên, chênh lệch đó hiện đang bị thu hẹp. Giả định lãi suất huy động ngoại tệ trung bình 4%/năm trừ đi lạm phát của Mỹ 2%/năm + lạm phát của Việt Nam 5%/năm và rủi ro hối đoái 2%/năm, trong khi lãi suất huy động VND bình quân 11%/năm, thì chênh lệch thực tế giữa lãi suất VND và ngoại tệ là 2%/năm.
Đây là dư địa duy nhất còn lại để Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất. Tuy nhiên dư địa này cũng rất mong manh vì chỉ số lạm phát của Việt Nam có 40% trọng số là lương thực thực phẩm thường tăng lên theo mùa vụ đặc biệt là cuối năm. Điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước trên thực tế chỉ còn dư địa 1% để điều chỉnh lãi suất từ nay đến cuối năm.
Nếu lãi suất xuống thấp hơn, dân chúng, doanh nghiệp và ngân hàng sẽ dịch chuyển tài sản ngược lại từ nội tệ sang ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ biến động mạnh và có thể gây những bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng.
Ngoài ra, nợ xấu cũng là một yếu tố khiến cho các ngân hàng thương mại không thể giảm lãi suất cho vay xuống mặc dù lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh vì họ phải trích lập dự phòng rủi ro và tăng chi phí xử lý nợ xấu.
TS. Hưng - Nam 43 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Việc giảm đồng loạt lãi suất các khoản vay cũ đối với tất cả lĩnh vực, các đối tượng có thể dẫn đến rủi ro lãi suất thế nào cho hệ thống ngân hàng? Ngân hàng thương mại có biện pháp gì để khắc phục rủi ro không?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Trong thời gian vừa qua các ngân hàng thương mại đã đồng loạt hạ lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Rủi ro có thể xảy ra ở đây: ngân hàng là trung gian huy động vốn để cho vay, khi một khoản tín dụng được cấp ra đồng nghĩa với việc ngân hàng đã phải huy động từ trước đó một khoản vốn tương ứng với kỳ hạn và lãi suất đã được xác định. Trong khi đó lãi suất đầu ra phải giảm ngay, mà lãi suất huy động muốn giảm được thì phải có độ trễ, thường phải khoảng 3 tháng.
Giải pháp tổng thể của ngân hàng để hạn chế rủi ro, đó là nhanh chóng cơ cấu lại nguồn vốn như tìm kiếm và thu hút các nguồn vốn có lãi suất thấp để kéo lãi suất huy động bình quân xuống.
Ở Vietinbank khi thực hiện giảm lãi suất cho vay <= 15% , bình quân một ngày chúng tôi sẽ thiêt hại khoảng 6,5tỷ – 7 tỷ đồng. Buộc Vietinbank phải sàng lọc, loại bỏ bớt các nguồn vốn có lãi suât cao và bù vào đó là việc tìm kiếm các nguồn vốn có lãi suất tốt hơn để cơ cấu lại lãi suất huy động bình quân. Đồng thời tích cực đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, nhằm tăng quy mô và tăng doanh thu.
Kết quả đạt được sau một tháng, thiệt hại từ việc giảm lãi suất được rút xuống còn 2 - 2,5 tỷ đồng/ngày.
Ho Binh Minh - Nam 42 tuổi - Phóng viên:
Câu hỏi gửi bà Nguyễn Thị Hồng: Xin bà cho biết chính sách phát triển tín dụng cụ thể của Ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn năm tháng cuối năm và dự báo tăng trưởng tín dụng của cả năm 2012. Xin cảm ơn!
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Trong 5 tháng cuối năm, để mở rộng tín dụng Ngân hàng Nhà nước cũng đã cho phép một số tổ chức tín dụng được tăng trưởng tín dụng vượt mức thông báo đầu năm. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng sẵn sàng cung ứng tiền qua các kênh để hỗ trợ nguồn vốn cho việc mở rộng tín dụng, toàn hệ thống phấn đấu năm 2012 tăng trưởng tín dụng ở mức 8 – 10%.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp, xét trên các yếu tố: khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước, lạm phát, thực lực của các tổ chức tín dụng…?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Về vấn đề giảm lãi suất hiện nay không chỉ là sự quan tâm của doanh nghiệp và xã hội, mà còn là sự quan tâm của chính hệ thống các ngân hàng. Lãi suất thấp hay cao suy cho cùng là phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của người vay.
Tuy nhiên khả năng này lại tùy thuộc vào: lạm phát, lãi suất huy động, chi phí hoạt động của ngân hàng. Trên thực tế đà tăng lạm phát đang giảm, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đang yếu đó chính là những nhân tố khách quan buộc lãi suất phải giảm.
Lê Việt Anh - Nam 28 tuổi - Kinh doanh:
Là một người trẻ và theo dõi kinh tế thường xuyên tôi rất ngưỡng mộ TS. Lê Xuân Nghĩa. Tôi xin đặt một câu hỏi với tiến sĩ như sau: Muốn khơi thông dòng tín dụng thì phải giải quyết được nợ xấu, kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy chi phí để giải quyết nợ xấu chỉ là một phần, còn cái quyết định để giải quyết thành công nợ xấu đó là: cách làm - cơ chế - bộ máy nhân sự (những yếu tố này cũng quyết định tới tổng chi phí để giải quyết nợ xấu). Vậy theo tiến sĩ ba vấn đề này sẽ được làm theo cách nào, mất khoảng bao lâu để chúng ta thống nhất xong? Xin cảm ơn tiến sĩ và chúc tiến sĩ khỏe.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Kinh nghiệm thế giới cho thấy xử lý nợ xấu với khối lượng lớn thì mô hình AMC tổng hợp là hiệu quả nhất. Điều này đã được thực hiện thành công ở Thụy Điển, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản...
Ở Việt Nam, chúng tôi cũng cho rằng cần thiết phải có AMC để nhanh chóng giải tỏa toàn bộ nợ xấu từ các ngân hàng ra khỏi bảng tổng kết tài sản và chuyển sang cho AMC quản lý chuyên biệt. Trên cơ sở đó, làm tăng thêm vốn (tiền tươi) cho các ngân hàng thương mại để đẩy tín dụng ra cho nền kinh tế.
Việc còn lại là xử lý nợ xấu giữa AMC và các doanh nghiệp, kinh nghiệm quốc tế có thể phối hợp 4 cách:
- Thứ nhất, biến nợ trở thành vốn góp cổ phần của AMC tại doanh nghiệp và trả lại cho doanh nghiệp toàn bộ tài sản thế chấp để doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng bình thường.
- Thứ hai là bán sỉ và bán lẻ nợ và tài sản thế chấp cho các nhà đầu tư trên thị trường nợ.
- Thứ ba là chứng khoán hóa nợ và bán ra thị trường vốn (cách này Việt Nam khó làm vì thị trường vốn chưa phát triển)
- Thứ tư là xóa nợ, ví dụ cho các đối tượng chính sách, nông dân, nông nghiệp, nông thôn có nợ xấu vì lý do khách quan như thiên tai, dịch bệnh...
Đúng như anh nói, rất cần cơ chế và bộ máy nhân sự tốt và các nước thường lợi dụng bộ máy hiện có để tiến hành nhanh chóng, ví dụ như sử dụng ngân hàng phát triển hoặc bảo hiểm tiền gửi để quản lý tài sản còn người quyết định mua bán và cơ chế mua bán thì do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Phạm Hưng Hà - Nam 44 tuổi - Giám đốc:
Thống đốc Bình có lần nói trên VnEconomy là nói trước làm sau, nói được là phải làm cho được. Tôi nhớ đại ý thế. Điều này là rất tốt để doanh nghiệp không bị giật mình, mất phương hướng, để chủ động làm việc. Nhưng tôi e là Ngân hàng Nhà nước có thực sự được độc lập, chủ động và toàn quyền khi dự kiến chính sách và điều hành chính sách không? Mong được trả lời.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Thực tế trong vòng một năm qua, chính sách của Ngân hàng Nhà nước đã thực sự chủ động dẫn dắt thị trường nhất là chính sách lãi suất và tỷ giá. Ngay từ đầu năm, Thống đốc đã tuyên bố giảm lãi suất theo lộ trình và mức tăng tỷ giá đối đa của năm 2012. Kết quả cho thấy là Ngân hàng Nhà nước đã đạt được mục tiêu này. Đến nay, mặt bằng lãi suất đã giảm mạnh so với đầu năm, tỷ giá ổn định, điều này đã góp phần nâng cao xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.
Đăng Tuấn - Nam 41 tuổi - Doanh nghiệp:
Thật là… vô lý. Doanh nghiệp tốt, khỏe thì cần gì hỗ trợ! Ngân hàng và chính sách còn phải dựa vào họ chứ. Doanh nghiệp yếu, khó khăn có nguy cơ đổ vỡ thì mới cần hỗ trợ. Oái ăm là ngân hàng lại không thể cho vay vì nguy cơ đó. Vậy không lẽ chúng ta đứng nhìn lượng doanh nghiệp phá sản gia tăng đều đều như vậy sao? Mỗi ngân hàng chỉ cần chia sẻ 10 – 20% lợi nhuận năm nay thì sẽ cứu được hàng nghìn doanh nghiệp!
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Cảm ơn câu hỏi rất thú vị của bạn.
Tôi cũng đồng ý với quan điểm là với các doanh nghiệp yếu và khó khăn rất cần có sự hỗ trợ từ các bộ, ngành, trong đó có ngành ngân hàng.
Ở VietinBank, chúng tôi luôn tích cực trong việc xem xét hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp là các khách hàng truyền thống, đã gắn bó với VietinBank nhiều năm. Thực tế chỉ tính việc giảm lãi suất VietinBank đã hỗ trợ doanh nghiệp một khoản ước tính 1.500 - 1800 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận mỗi một ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp. Do vậy họ vẫn phải đảm bảo các mục tiêu kinh doanh đã đặt ra, qua đó đảm bảo được quyền lợi cho các cổ đông và người lao động. Nên chúng ta cũng không thể đòi hỏi các ngân hàng phải chia sẻ bao nhiêu % lợi nhuận. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức khỏe của từng ngân hàng.
Với quan điểm cá nhân, tôi cho rằng bên cạnh sự giúp đỡ từ ngân hàng, các doanh nghiệp cũng cần tìm kiếm các nguồn hỗ trợ khác, đồng thời cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính, nhằm hạn chế thấp nhất tổn thất có thể xảy ra.
Thu Cúc - Nữ 39 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Trong một năm qua, Ngân hàng Nhà nước phải đối mặt với hàng loạt vấn đề: ổn định tỷ giá, ổn định thị trường vàng, không để thị trường vàng xáo trộn và tác động xấu đến tỷ giá lại vừa thực hiện đề án tái cấu trúc ngân hàng trong khi lời than phiền về lãi suất cao, khó tiếp cận vốn mỗi ngày một nhiều thêm. Như vậy theo lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước là áp lực có quá lớn không, có vì thế mà hạn chế đến hiệu quả điều hành?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Đúng là trong vòng một năm qua, Ngân hàng Nhà nước phải chịu áp lực và đối mặt với một loạt các vấn đề như bạn nói. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự đồng lòng và quyết tâm của toàn ngành, sự chỉ đạo quyết liệt và hết sức trách nhiệm của ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã đạt được rất nhiều kết quả: hoạt động của hệ thống ngân hàng về cơ bản là ổn định, kể cả trong quá trình thực hiện cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; mặt bằng lãi suất giảm, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao…
Nguyễn Hưng - Nam 41 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều hành quyết liệt như trong vòng 5 tháng, giảm 5 lần các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng 7 tháng vẫn rất thấp. Một bên thì doanh nghiệp gặp khó khăn, hàng tồn kho lớn, sức mua giảm, không thu hồi được vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp không muốn vay; một bên là ngân hàng muốn cho vay nhưng vẫn phải đáp ứng điều kiện đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Vậy đâu là “nút thắt” và xử lý thế nào để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 10%?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Vấn đề cốt lõi nhất của Việt Nam trước mắt là xử lý nợ xấu, phá băng tín dụng. Trong điều kiện hiện nay, cần phải có bàn tay Chính phủ vì nợ xấu đã quá lớn và tăng rất nhanh cùng với tốc độ phá sản ngày càng mạnh của doanh nghiệp.
Tôi cho rằng nếu Chính phủ không sớm đưa vấn đề này ra để giải quyết thì kinh tế Việt Nam có thể rơi vào tình trạng suy giảm nghiêm trọng kéo dài nhiều năm khi mà nền tảng của nó là phần lớn các doanh nghiệp đã suy kiệt tới mức không thể cứu vãn được.
Có vẻ như nhiều người chưa nhận ra tính chất nghiêm trọng của vấn đề này. Chúng ta hy vọng bằng nỗ lực của mình Chính phủ có thể cứu vãn được tình thế mà theo đánh giá của tôi là rất xấu này.
Như Thành - Nam 40 tuổi - Doanh nghiệp:
Xin chào Tổng giám đốc VietinBank. Cho tôi hỏi, là ngân hàng luôn dẫn đầu hệ thống về lợi nhuận, luôn có tỷ lệ lãi cận biên lớn như vậy (5,5 - 6%), thì VietinBank đã thực sự chia sẻ, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp chưa? Mong ông trả lời và chúc ông sức khỏe.
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Cảm ơn bạn.
Theo kết quả kinh doanh 7 tháng đầu năm 2012, thì NIM của Vietinbank hiện nay chỉ ở mức 2 – 2,5%, và đang có chiều hướng thấp hơn.
Đó là kết quả của việc Vietinbank đã giảm lãi suất đầu ra, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn. Và như tôi đã trả lời ở trên, với việc giảm lãi suất Vietinbank đã hỗ trợ doanh nghiệp một khoản ước tính 1.500tỷ – 1800 tỷ đồng/năm.
Nguyễn Hưng - Nam 41 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều hành quyết liệt như trong vòng 5 tháng, giảm 5 lần các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng 7 tháng vẫn rất thấp. Một bên thì doanh nghiệp gặp khó khăn, hàng tồn kho lớn, sức mua giảm, không thu hồi được vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp không muốn vay; một bên là ngân hàng muốn cho vay nhưng vẫn phải đáp ứng điều kiện đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Vậy đâu là “nút thắt” và xử lý thế nào để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 10%?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Bản thân câu hỏi của bạn đã bao gồm rất nhiều nội dung để trả lời câu hỏi của chính bạn: những chính sách kịp thời và quyết liệt của ngân hàng Nhà nước về tần suất giảm lãi suất, về lĩnh vực ưu tiên dẫn vốn, về chỉ đạo các tổ chức tín dụng khắc phục khó khăn và chấp hành nghiêm chế độ chính sách trong việc phát triển tín dụng…nhưng doanh nghiệp vẫn khó khăn nợ xấu vẫn ra tăng, các điều kiện để tăng tín dụng vẫn rất khó khăn…vì vậy nút thắt nằm chính ở năng lực tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế và nằm ở nợ xấu ngân hàng.
Phạm Hưng Hà - Nam 44 tuổi - Giám đốc:
Thống đốc Bình có lần nói trên VnEconomy là nói trước làm sau, nói được là phải làm cho được. Tôi nhớ đại ý thế. Điều này là rất tốt để doanh nghiệp không bị giật mình, mất phương hướng, để chủ động làm việc. Nhưng tôi e là Ngân hàng Nhà nước có thực sự được độc lập, chủ động và toàn quyền khi dự kiến chính sách và điều hành chính sách không? Mong được trả lời.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Ngân hàng Nhà nước đã có những cải cách lớn trong việc điều hành chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát mục tiêu và chính sách này khó có thể đảo ngược, hơn nữa Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng là một người khá cứng rắn trong việc duy trì mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra, Chính phủ, Quốc hội trong những năm qua cũng đã rút được những bài học rất quan trọng về xử lý mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng với phương châm hiện nay là kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý và điều này cũng gián tiếp đề cao vai trò độc lập của Ngân hàng Nhà nước.
Với phương châm này, chúng ta có thể dự đoán Việt Nam sẽ bước vào một thời kỳ kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát tương đối thấp nhưng tăng trưởng cũng chỉ ở mức 5,5-6%/năm kéo dài trong vòng vài ba năm.
Nguyen Toan - Nam 32 tuổi - PV:
Xin hỏi các diễn giả, mức tăng trưởng tín dụng 8 – 10% đến cuối năm nay mà Ngân hàng Nhà nước dự tính có khả thi không? Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Đại Lai:
Đối với bối cảnh kinh tế hiện nay, mức tăng trưởng tín dụng 8 - 10% đến cuối năm có khả thi hay không, không còn tùy thuộc duy nhất vào nguồn của ngân hàng, mà tùy thuộc chủ yếu vào sức hấp thụ an toàn của nền kinh tế.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Ngân hàng Nhà nước đã có những cải cách lớn trong việc điều hành chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát mục tiêu và chính sách này khó có thể đảo ngược, hơn nữa Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng là một người khá cứng rắn trong việc duy trì mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra, Chính phủ, Quốc hội trong những năm qua cũng đã rút được những bài học rất quan trọng về xử lý mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng với phương châm hiện nay là kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý và điều này cũng gián tiếp đề cao vai trò độc lập của Ngân hàng Nhà nước.
Với phương châm này, chúng ta có thể dự đoán Việt Nam sẽ bước vào một thời kỳ kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát tương đối thấp nhưng tăng trưởng cũng chỉ ở mức 5,5-6%/năm kéo dài trong vòng vài ba năm.
Theo tôi tăng trưởng tín dụng từ nay đến cuối năm giỏi lắm chỉ đạt 6-8% và mức tăng trưởng này cũng tốt vì thời gian không còn nhiều. Nếu tăng trưởng quá nhanh trong vòng một thời gian ngắn thì lạm phát sẽ tăng lên vào các tháng tới.
Theo tính toán của chúng tôi, nếu tăng trưởng tín dụng đến cuối năm là 6%, thì tăng trưởng kinh tế năm nay khoảng 5,1% và lạm phát 5 tháng sau đó khoảng 0,5%/tháng,
Nếu tăng trưởng tín dụng là 8% thì tương ứng tăng trưởng kinh tế 5,3%, lạm phát 5 tháng sau đó là xấp xỉ 1%/tháng.
Và nếu tăng trưởng tín dụng 9-10%, thì tăng trưởng kinh tế 5,5%, lạm phát 5 tháng sau đó sẽ là từ 1-1,5%/tháng.
TS. Hưng - Nam 43 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Theo số liệu thông báo của Ngân hàng Nhà nước thì đến 2/8/2012 dư nợ cho vay VND với mức lãi suất trên 15%/năm trong hệ thống ngân hàng hiện chỉ còn chiếm tỷ trọng là 29,1%/tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đây là một mức giảm rất lớn và mạnh trong thời gian ngắn. Đây là kết quả của sự đồng thuận hay do sức ép của mệnh lệnh hành chính? Và tại sao tỷ lệ giảm dư nợ cho vay lãi suất các khoản vay cũ về mức tối đa 15%/năm của các ngân hàng thương mại cổ phần lại chậm hơn so ngân hàng thương mại Nhà nước và nhóm ngân hàng nước ngoài?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc đề nghị các tổ chức tín dụng giảm lãi suất của các khoản cho vay cũ về mức tối đa là 15%/năm không phải là mệnh lệnh hành chính mà là lời hiệu triệu của Thống đốc nhằm chia sẻ khó khăn đối với doanh nghiệp và người dân. Như tôi đã trả lời ở trên, thì chỉ trong vòng 3 tuần từ 15/7, tỷ trọng dư nợ cho vay có lãi suất trên 15% đã giảm xuống còn 29%, giảm khoảng 87% so với trước 15/7, điều đó cho thấy được sự đồng lòng và ủng hộ của các tổ chức tín dụng.
Còn việc tỷ lệ giảm dư nợ cho vay lãi suất các khoản vay cũ về mức tối đa 15%/năm của các ngân hàng thương mại cổ phần lại chậm hơn so ngân hàng thương mại Nhà nước và nhóm ngân hàng nước ngoài là do họ không có lợi thế về quy mô, do lãi suất đầu vào của các ngân hàng này cao hơn hoặc có thể một số ngân hàng gặp khó khăn về tài chính… nên chưa thể giảm nhanh được.
Luc Van Ninh - Nam 33 tuổi - Ngân hàng nhỏ:
Kính gửi ông Thắng: Đáng lẽ VietinBank là ngân hàng lớn, có vai trò và trách nhiệm lớn trong hệ thống đối với nền kinh tế. Nhưng như ông Thắng nói đã 7 tháng mà tín dụng vẫn âm 2%. Chỉ cần VietinBank tăng 1% đã bằng 4 - 5 ngân hàng nhỏ khác tăng được 5 - 10%. Tôi cho rằng đây là vấn đề trách nhiệm. Ông và VietinBank có nhìn nhận thẳng như vậy ở diễn đàn này không? Cảm ơn ông và mong ông trả lời thật lòng.
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Chào bạn, vấn đề ở đây không phải là Vietinbank không muốn tăng trưởng tín dụng, mà đó là vấn đề hấp thụ vốn của các doanh nghiệp. Chúng tôi cũng rất mong muốn đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ, qua đó tăng trưởng quy mô tổng tài sản và hiệu quả.
Vietinbank đã đưa ra hàng loạt các chương trình cho vay áp dụng với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, với lãi suất rất thấp, Nhưng kết quả đạt được không như mong muốn, dòng vốn được hấp thụ rất chậm.
Tuy nhiên chúng tôi cũng hy vọng những tháng cuối năm tình hình này sẽ được cải thiện và kết thúc tháng 8 ngân hàng sẽ hồi phục được quy mô tín dụng và đạt được kết quả tăng trưởng tín dụng 10% – 12% vào cuối năm
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Xin hỏi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, trước thực tế tín dụng tiếp tục tăng trưởng thấp trong 7 tháng qua, trong khi doanh nghiệp đang rất cần vốn, được biết Ngân hàng Nhà nước đã cử nhiều đoàn công tác xuống tận các địa phương tìm hiểu thực tế để có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời. Vậy thông tin nhận được từ những cuộc tiếp xúc trên là những gì? Ngân hàng Nhà nước sẽ làm gì để góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều đoàn công tác đến các tỉnh, phối hợp với lãnh đạo địa phương để tổ chức hội nghị kết nối giữa ngân hàng và doanh nghiệp trên địa bàn. Qua thông tin từ các Đoàn công tác, các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã và đang tích cực triển khai, phối hợp với doanh nghiệp rà soát các khoản vay để giảm lãi suất.
Tại những hội nghị kết nối này, các doanh nghiệp cũng đã phản ánh những vướng mắc khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có những khó khăn về lãi suất, tín dụng. Lãnh địa phương, Đoàn công tác của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng trên địa bàn cũng đã giải đáp và cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Huỳnh Anh Dũng - Nam 39 tuổi - Banker:
Nhiều ý kiến cho rằng một vướng mắc của chính sách, của hỗ trợ, của hồi phục hiện nay là nợ xấu quá lớn. Dường như Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng còn rất thụ động trong việc xử lý vướng mắc này, dù chúng ta đã có nhiều rào cản pháp lý để ngăn chặn. Xin hỏi các diễn giả, làm sao chúng ta xử lý tốt được nó và đến bao giờ mới có thể nhẹ nhàng được?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Xử lý nợ xấu là một vấn đề cấp bách nhất hiện nay, càng chậm thì nợ xấu càng lớn vì doanh nghiệp càng phá sản nhiều hơn và kinh tế càng đình đốn, đòi hỏi Chính phủ phải có quyết tâm chính trị lớn.
Trong điều kiện hiện nay, Chính phủ cần có một nghị định riêng về xử lý nợ xấu và có một định chế tài chính để xử lý. Các nước đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm về xử lý nợ xấu, vấn đề là chúng ta có quyết tâm làm hay không.
Vốn để xử lý nợ xấu không phải là trở ngại chủ yếu, Chính phủ có thể huy động trái phiếu, dự phòng rủi ro hiện nay để hoàn tất quá trình này. Tuy nhiên, cần phải được sự đồng thuận rộng rãi của các cấp các ngành và của công luận. (Nhật Bản là một bài học thất bại về xử lý nợ xấu, làm cho nền kinh tế đình đốn 15 năm trời, thị trường bất động sản không phục hồi được chỉ vì tranh luận quá lâu về cách làm, đặc biệt là những vấn đề về lợi ích).
Vì vậy, bản thân tôi cũng rất lo ngại Việt Nam sẽ rơi vào tình cảnh này.
Bui Hoang Long - Nam 40 tuổi - Nhan vien ngan hang:
Tại thời điểm này đến hết năm 2013, thì chính sách tài chính công đi trước hay chính sách tiền tệ hoặc linh hoạt giữa hai chính sách?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc vào tỷ lệ đầu tư toàn xã hội, tuy nhiên tỷ lệ này đang giảm rất mạnh từ 41,5% GDP năm 2010 xuống còn 34,5% trong năm 2011 và dự kiến chỉ còn 31,5% trong năm 2012.
Trong đó, đầu tư toàn xã hội lại phụ thuộc vào ba yếu tố: FDI, đầu tư công và tăng trưởng tín dụng (đầu tư tư).
FDI về cơ bản là ổn định, như vậy tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc hai yếu tố còn lại. Hai yếu tố này bổ sung cho nhau và tạo ra những hiệu ứng lan tỏa lẫn nhau trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, tốt nhất là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa đầu tư công và tín dụng. Ví dụ, quý I hàng năm, khi đầu tư công giải ngân chậm (do thủ tục), thì lẽ ra tín dụng phải tăng mạnh hơn. Ở Việt Nam thì thông thường quý 1 cả hai yếu tố này đều triển khai chậm và vì vậy gánh nặng của tổng cầu thường tăng mạnh vào cuối năm.
Tính chất "giật cục" trong điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ cũng là một yếu tố tạo ra lạm phát do tâm lý. Vì vậy, cách tốt nhất là hai chính sách này phải được điều hòa đồng đều trong suốt cả năm.
Linh - Nữ 27 tuổi - Analyst:
Thực tế trong những năm qua cho thấy kinh tế của Việt Nam liên tục lặp lại chu kỳ lạm phát cao, tăng trưởng cao rồi lại tăng trưởng thấp, lạm phát thấp. Vậy với thực tế bơm tiền mạnh mẽ vào nền kinh tế như năm nay thì liệu một tình trạng tương tự có xảy ra trong năm tới hay không? Đó là chúng ta lại quay lại đối mặt với nguy cơ lạm phát trong năm 2013 hoặc chậm hơn là năm 2014.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Lạm phát thường lặp đi lặp lại theo chu kỳ ở Việt Nam là khuyết tật của việc điều hành chính sách cực đoan theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng. Đây là điều tối kỵ trong việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ hiện đại bởi vì nó sẽ tạo ra sự bất ổn nghiêm trọng của thị trường tài chính nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.
Tuy nhiên chúng tôi cho rằng từ nay trở đi vấn đề này sẽ được cải thiện hơn do Ngân hàng Nhà nước kiên định chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và Chính phủ cũng kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế hợp lý (không phải tăng trưởng bằng mọi giá như những năm trước đây).
Ngô Trúc Bình - Nam 55 tuổi - Công chức:
Đã bao lần, bao nhiêu đề nghị áp trần lãi suất cho vay cho cả cá nhân, vậy mà chưa biết bao giờ mới được, thưa các lãnh đạo và chuyên gia? Vì không có chế tài nên để giảm lãi suất cho cá nhân phải chờ đợi các ngân hàng xem xét. Nếu không hỗ trợ cá nhân vay vốn thì hàng hóa, nhà cửa… bán cho ai, doanh nghiệp sản xuất tồn kho thì tăng cao. Kiến nghị áp trần lãi suất cho vay cả cá nhân. Trân trọng.
Ông Nguyễn Đại Lai:
Chính sách lãi suất xưa nay nói chung là bình đẳng với người vay không kể đó là doanh nghiệp hay cá nhân. Vì vậy không có chuyện áp trần lãi suất cho vay khu biệt với đối tượng nào cả. Tuy nhiên trong nỗi băn khoăn của bạn về việc "nếu không hỗ trợ cá nhân vay vốn thì hàng hóa, nhà cửa… bán cho ai, doanh nghiệp sản xuất tồn kho thì tăng cao" chính là nội hàm của quy luật thị trường.
Lê Chiến Thắng - Nữ 35 tuổi - NĐT nhỏ lẻ:
Có thể nói chính sách tiền tệ đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Nhưng vừa rồi và sắp tới hàng loạt giá hàng quan trọng xăng, điện… đồng loạt tăng, liên tiếp tăng thế này thì sao? Lạm phát trở lại thì chủ trương hạ lãi suất cho vay chưa đến đích đã quay ngược. Theo các chuyên gia thì tình hình có thể như thế không? Xin cảm ơn.
Ông Nguyễn Đại Lai:
Băn khoăn của bạn có thể đúng một phần, nhưng trong nền kinh tế thị trường lạm phát chỉ có thể tăng khi tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng đồng loạt giá cả hàng hóa, dịch vụ liên tiếp trong một thời gian.
Việc có một số mặt hàng tăng giá, trong lúc một số mặt hàng khác giảm giá là chuyện bình thường của quy luật. Do đó, tình hình vẫn có thể kiểm soát được nếu chúng ta chủ động kiểm soát được tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế.
Duong Quy Binh - Nam 34 tuổi:
Trước đây tôi nghe các chuyên gia kinh tế nói tham mưu cho Chính phủ xử lý nợ xấu bằng cách thành lập công ty mua lại các khoản nợ xấu. Không biết tình hình thành lập công ty mua nợ đó như thế nào, xin cho hỏi. Cám ơn.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc xử lý nợ xấu là một nội dung quan trọng trong Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo Quyết định số 254 của Thủ tướng Chính phủ. Để triển khai nội dung này, hiện Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng phương án xử lý nợ xấu tổng thể để trình Thủ tướng Chính phủ, trong đó sẽ cân nhắc nhiều biện pháp xử lý nợ xấu. Việc có thành lập AMC thì vẫn đang trong quá trình nghiên cứu.
Linh Nguyen - Nam 35 tuổi - Giám đốc phân tích:
Xin cảm ơn chị Hồng đã tham gia giao lưu cùng độc giả. Em thấy ở Trung Quốc có áp trần lãi suất huy động và cho vay và spread của 2 lãi suất này khoảng 3%. Với các ngân hàng thương mại, chi phí hoạt động thường cộng thêm 2%, nên nếu spread 3% thì ngân hàng thương mại sẽ có lãi. Hiện tại spread 15%-9%= 6% là cao (đây là tính sơ, còn nếu tính chi tiết thì phải tính thêm tỷ trọng của các khoản huy động, trong đó có huy động không kỳ hạn có lãi suất rất thấp). Một ngân hàng thương mại lớn em biết trong quý 2 có tỷ lệ lãi biên (Net interest margin) tăng so với quý 1 và cả 2 quý đều trên 4%. Như vậy ngân hàng thương mại đang hưởng lợi từ chính sách áp trần lãi suất huy động trong khi không có trần cho vay. Đã có nhiều ý kiến đề nghị áp trần lãi suất cho vay, vậy vì sao Ngân hàng Nhà nước chưa cho áp dụng biện pháp này mà mới chỉ dừng lại ở việc kêu gọi. Em mong chị Hồng giải đáp thắc mắc của em. Cảm ơn chị nhiều và chúc chị luôn thành công trong sự nghiệp và sức khỏe trong cuộc sống.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Hiện nay, đối với các khoản cho vay cũ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị các tổ chức tín dụng giảm xuống mức tối đa là 15%/năm. Còn đối với các khoản cho vay mới, đối với 4 lĩnh vực ưu tiên thì áp dụng trần lãi suất cho vay là 13%/năm (có nhiều ngân hàng đưa ra lãi suất thấp hơn); các lĩnh khác ở mức trên 13%/năm nhưng phổ biến khoảng 15%/năm. Trần lãi suất huy động có nhiều mức tùy theo kỳ hạn, không kỳ hạn và dưới một tháng là 2%/năm, từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9%/năm, trên 12 tháng thì theo lãi suất thỏa thuận (phổ biến là 12%/năm).
Khi tính chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra phải tính theo tỷ trọng huy động và cho vay với lãi suất tương ứng, ngoài ra còn cộng các chi phí dữ trữ bắt buộc, dự phòng thanh toán, xử lý rủi ro… Mỗi một ngân hàng thì có các tỷ lệ lãi biên khác nhau tùy theo chiến lược hoạt động và mục tiêu lợi nhuận của từng ngân hàng.
Nguyen Nguyen An - Nam 35 tuổi - Nđt:
Xin chào bà Hồng. Bà có thể cho biết sau khi lãi suất huy động liên tiếp giảm vừa qua thì người dân có gửi tiền vào ngân hàng nhiều nữa không? Nếu không thì các ngân hàng sẽ phải tăng lãi suất, lách trần rồi thị trường lại căng thẳng thì làm sao giảm được lãi suất cho vay? Cảm ơn bà.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã 4 điều chỉnh giảm lãi suất trần huy động với tổng mức giảm từ 4 – 5%/năm, đây là mức giảm khá lớn nhưng phù hợp với xu hướng và diễn biến của lạm phát. Mức trần lãi suất huy động hiện nay vẫn đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền nên người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Số liệu cho thấy, trong 7 tháng đầu năm 2012 huy động vốn vẫn tăng khoảng 10%, riêng VND tăng khoảng 12% so với cuối năm 2011.
Vũ Bá Hùng - Nam 29 tuổi - Kinh doanh:
Tôi có mở doanh nghiệp mới hoạt động khoảng 5 tháng chuyên về sản xuất phân bón lá và đang hoạt động tương đối tốt. Do thiếu vốn để xây dụng nhà xưởng mua thêm máy móc thiết bị, và vốn lưu động nên muốn vay ngân hàng nhưng mà theo quy tắc ngân hàng thì tôi phải có thế chấp thì mới được vay, nhưng tôi không có nhà để thế chấp, và vốn muôn vay khoảng 300 triệu. Vậy làm sao tôi có thể vay được ngân hàng? Xin được tư vấn. Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Khi ngân hàng xem xét cho vay tín chấp một doanh nghiệp thường căn cứ vào các chỉ số tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh từ 1- 3 năm trước khi vay vốn ngân hàng và có phương án kinh doanh khả thi.
Trường hợp của bạn là doanh nghiệp mới hoạt động được 5 tháng nên rất khó để ngân hàng có thể đánh giá chính xác tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của bạn. Trong trường hợp này, nếu sau khi xem xét phương án kinh doanh của bạn khả thi sẽ đề nghị bổ sung thêm tài sản thế chấp vì bạn chưa đủ điều kiện để vay tín chấp.
Tuy nhiên bạn có thể đến chi nhánh VietinBank đóng trên địa bàn công ty của bạn hoạt động để chúng tôi có thể tư vấn và xem xét cụ thể.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Từ đầu năm tới nay, căn cứ vào tín hiệu từ nền kinh tế và tình hình lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo 5 lần hạ lãi suất.
Với thống kê lạm phát cuối tháng 7 tiếp tục giảm 0,29% cho thấy tình hình lạm phát đã được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước kiểm soát rất tốt.
Đây chính là điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay phù hợp với điều kiện sức khỏe của từng ngân hàng, thậm chí lãi suất cho vay ở mức thấp hơn 15%. Tuy nhiên chúng ta cũng phải tính tới việc giảm lãi suất đầu ra sẽ ảnh hưởng tới lãi suất huy động. Phải làm thế nào để mức lãi suất huy động thực dương để đảm bảo hấp dẫn và thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.
Tại Vietinbank, hầu hết các chương trình cho vay ngắn hạn đều chỉ ở mức 9% - 12%/năm.
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý, việc giảm nhanh và liên tục lãi suất cho vay cũng tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế. Thời gian vừa qua, việc Ngân hàng nhà nước chỉ đạo hạ lãi suất nhiều lần đã thể hiện sự nỗ lực cố gắng nhất có thể của ngành Ngân hàng trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhơn Hậu - Nam 34 tuổi - Bạn đọc:
Nhìn lại, việc hoạch định chính sách của chúng ta bao lâu nay vẫn hạn chế ở tầm dự báo. Theo các diễn giả đâu là chủ quan, đâu là khách quan ở hạn chế này?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chúng ta đang sống trong giai đoạn thị trường tài chính biến động dữ dội vì vậy dự báo rất phức tạp, bạn thấy các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB... liên tục phải sửa đổi dự báo của mình khoảng 3 tháng một lần, và chất lượng dự báo của họ về kinh tế của Việt Nam thậm chí còn kém xa dự báo của các cơ quan nội địa và đi sau các cơ quan nội địa.
Vì vậy, nguyên nhân chính là cập nhật các thông tin trong điều kiện bất ổn tài chính thường rất khó khăn. Ngoài ra, các vấn đề về chính trị cũng làm thay đổi cục diện kinh tế và tài chính, ví dụ cứu đồng Euro hay không cứu, nới lỏng định lượng hay không nới lỏng định lượng, tài trợ trực tiếp cho ngân hàng hay thông qua chính phủ, Ngân hàng Trung ương mua trái phiếu hay không mua trái phiếu... đều là những quyết định chính trị có liên quan đến việc làm, bầu cử, xung đột đảng phái...
Vì vậy cho nên ít nhất từ nay đến 2015 các dự báo sẽ còn nhiều thay đổi và đấy là chuyện bình thường.
Ngô Trúc Bình - Nam 55 tuổi - Công chức:
Đã bao lần, bao nhiều đề nghị áp trần lãi suất cho vay cho cả cá nhân, vậy mà chưa biết bao giờ mới được, thưa các lãnh đạo và chuyên gia? Vì không có chế tài nên để giảm lãi suất cho cá nhân phải chờ đợi các ngân hàng xem xét. Nếu không hỗ trợ cá nhân vay vốn thì hàng hóa, nhà cửa… bán cho ai, doanh nghiệp sản xuất tồn kho thì tăng cao. Kiến nghị áp trần lãi suất cho vay cả cá nhân. Trân trọng.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi ủng hộ ý kiến của ông. Cho vay tiêu dùng có vai trò rất quan trọng để phục hồi tổng cầu của nền kinh tế, góp phần khôi phục sản xuất kinh doanh và giải quyết hàng tồn kho. Tuy nhiên, hệ thống hoạch định chính sách của Việt Nam hiện nay lại coi trọng cung hàng hóa hơn cầu hàng hóa (trọng cung). Vì vậy, rất xem nhẹ việc phát triển tiêu dùng.
Tuy nhiên, trần lãi suất bất luận là cho loại dịch vụ ngân hàng nào về cơ bản không phù hợp với kinh tế thị trường, làm cho lãi suất trở nên méo mó và phân bổ nguồn lực sai hướng, không hiệu quả. Theo tôi, tốt nhất là bỏ các loại trần lãi suất hiện nay như chúng ta đã từng làm trong những năm đầu của thế kỷ này.
Nguyen Huu Chuyen - Nam 55 tuổi - Doanh nhân:
Hai năm nay Chính phủ tập trung ổn định vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh, các thị trường, các vấn đề lãi suất, nợ xấu… vẫn lao đao, suy giảm, căng thẳng… Các chuyên gia dự báo đến bao giờ mới thực sử ổn định được vĩ mô, an sinh xã hội?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Nghị quyết 11 của Chính phủ đã khẳng định mục tiêu ưu tiên trong những năm tới là ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo an sinh xã hội.
Cho đến nay, Chính phủ đã đạt được phần lớn các mục tiêu quan trọng như: kiểm soát lạm phát, củng cố thanh khoản của ngân hàng, ổn định tỷ giá hối đoái, tăng dự trữ ngoại tệ...,
Tuy nhiên, do nới lỏng tín dụng trước đây, nền kinh tế đang bị nợ xấu làm cho suy kiệt thanh khoản. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng và là căn bệnh rất khó chữa, có thể làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại trong nhiều năm do lòng tin trong hệ thống tài chính suy giảm mạnh.
Tuy nhiên cũng có thể thấy kinh tế vĩ mô sẽ được ổn định và phải trả giá cho một giai đoạn tăng trưởng thấp mà nguyên nhân trực tiếp là nợ xấu và nguyên nhân sâu xa là mô hình tăng trưởng lỗi thời, kém hiệu quả. Nền kinh tế cần phải được tái cơ cấu một cách toàn diện mà đây là cơ hội làm bộc lộ những khuyết tật của mô hình kinh tế Việt Nam hiện nay.
Phạm Anh Tôn - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cháu chào bác Lê Xuân Nghĩa. Hiện nay hệ thống ngân hàng về cơ bản đã có tiến triển tốt về mặt thanh khoản, nhưng dòng vốn vẫn không thể lưu thông ra nền kinh tế do nợ xấu (vào khoảng 202.000 tỷ), nếu bơm tiền cho các ngân hàng thương mại để xử lý nợ xấu có tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về làm phát trong tương lai hay không? Và dòng tiền sẽ được kiểm soát như thế nào trong việc xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại? Nếu Việt Nam chọn cách thành lập AMC thì sẽ dùng vốn ở đâu? Và đây có phải là cách khả thi nhất hay không không? Cháu xin cám ơn bác!
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi cho rằng thành lập AMC để xử lý nợ xấu là cách tốt nhất để giải quyết nhanh vấn đề đóng băng tín dụng hiện nay. Thực ra vốn để cho AMC hoạt động không phải quá lớn bởi vì AMC không mua lại 100% giá trị sổ sách của các khoản nợ mà bình quân khoảng 35-40% giá trị (Hàn Quốc 36%).
Như vậy, bạn có thể tính nếu nợ xấu 200 ngàn tỷ thì vốn cho AMC hoạt động chỉ cần dưới 100 ngàn tỷ đồng trong đó 10-20% là vốn tự có của Chính phủ, phần còn lại có thể huy động bằng phát hành trái phiếu trong vòng 1-2 năm. Điều này không quá khó khăn.
Le Van Lam - Nam 50 tuổi - Cán bộ:
Xin chào bà Nguyễn Thị Hồng. Quy định sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt là chủ trương đúng đắn, nhằm giảm chi phí lưu thông tiền tệ liên quan đến công tác quản lý ngân quỹ .Chủ trương này cần phải được tuyên truyền phổ biến sâu rộng và lâu dài do thói quen sử dụng tiền mặt của người dân. Tuy nhiên, trong giai đoạn khó khăn hiện nay, tín dụng tăng trưởng âm, sản xuất đinh đốn, nợ quá hạn tăng, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn do tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu.... điều mà ai cũng thấy. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước ra Thông tư 09/NHNN ngày 10/4/2012 vô hình chung siết chặt thêm quy định cho vay đối với tổ chức và cá nhân khi muốn vay vốn ngân hàng. Do thủ tục giải ngân rườm rà, và ít tác dụng, ngân hàng tìm cách lách luật bằng việc giải ngân, ví dụ vay 1,8 tỷ đồng thì giải ngân thành 20 lần rút vốn... Bà đánh giá thế nào vế vấn đề này? Có thể sửa đổi thông tư cho phù hợp với thực tế không?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 09 quy định để sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt nhằm đảm bảo việc quản lý vốn vay sử dụng đúng mục đích, phòng ngừa rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng trong việc giải ngân vốn cho vay bằng tiền mặt để sử dụng sai mục đích, không quy định thêm các thủ tục giải ngân đối với các tổ chức tín dụng.
Đăng Tuấn - Nam 41 tuổi - Doanh nghiệp:
Thật là… vô lý. Doanh nghiệp tốt, khỏe thì cần gì hỗ trợ! Ngân hàng và chính sách còn phải dựa vào họ chứ. Doanh nghiệp yếu, khó khăn có nguy cơ đổ vỡ thì mới cần hỗ trợ. Oái ăm là ngân hàng lại không thể cho vay vì nguy cơ đó. Vậy không lẽ chúng ta đứng nhìn lượng doanh nghiệp phá sản gia tăng đều đều như vậy sao? Mỗi ngân hàng chỉ cần chia sẻ 10 – 20% lợi nhuận năm nay thì sẽ cứu được hàng nghìn doanh nghiệp!
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, tổng cầu giảm mạnh, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, doanh nghiệp không có khả năng hấp thụ vốn, thị trường bất động sản đóng băng khiến cho doanh nghiệp ngày càng đình đốn và nợ xấu cũng theo đó ngày càng tăng lên, đẩy hệ thống ngân hàng vào tình trạng rủi ro thanh khoản rất lớn. Khó có thể trông cậy vào việc ngân hàng sẽ cứu doanh nghiệp bằng cách hy sinh một phần lợi nhuận của họ bởi vì ngân hàng phải chịu trách nhiệm về tiền gửi của dân chúng mà họ phải hoàn lại 100% cả vốn lẫn lãi trong bất kỳ trường hợp nào.
Khả năng cứu trợ doanh nghiệp hiện nay chỉ có thể trông cậy vào chính phủ và tự các doanh nghiệp trong đó quan trọng nhất là chính phủ phải mua lại toàn bộ nợ xấu của doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho ngân hàng đẩy tín dụng mới ra thị trường. Việc chính phủ mua lại nợ xấu tất nhiên có giới hạn, tùy thuộc vào mức độ rủi ro của từng khoản nợ.
Ví dụ nợ xấu 10 tỷ, Chính phủ có thể mua lại 2-3 tỷ nhưng điều này có hai cái lợi. Một là số tiền Chính phủ mua nợ là tiền thật trong khi 10 tỷ nợ xấu là tiền chỉ có trong sổ sách. Thứ hai là mặc dầu ngân hàng bị tổn thất 7-8 tỷ nhưng bù lại bảng cân đối tài sản sẽ trở nên sạch sẽ, họ buộc phải chấp nhận giảm lợi nhuận, giảm tài sản thậm chí giảm vốn tự có nhưng điều quan trọng là họ sẽ cho các doanh nghiệp vay mới để tiếp tục kinh doanh.
Và đây là cách duy nhất để cứu doanh nghiệp một cách có hiệu quả hiện nay.
Phan Vu Nhat Minh - Nữ 29 tuổi - Nghiên cứu sinh:
Tái cấu trúc là một câu chuyện rất nóng trong thời gian gần đây, từ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đến tái cấu trúc nền kinh tế. Vậy tôi muốn hỏi, thực tế thành tựu, kết quả mà chúng ta đã đạt được là gì? Chúng ta tiến hành trong giai đoạn kinh tế trong nước chịu nhiều tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới liệu có phải là một thời điểm hợp lý hay không vì doanh nghiệp, ngân hàng thương mại cùng một lúc phải gánh rất nhiều khó khăn? Chúng ta cân nhắc được - mất trong thời gian qua như thế nào? Và mục tiêu của quá trình tái cấu trúc đến hết năm nay, sau đó là năm 2013 cụ thể ra sao?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Vấn đề tái cấu trúc…như bạn nói: nóng thì đúng, nhưng mới thì không phải vì chúng ta tiến hàng công cuộc đổi mới hơn 20 năm nay cũng là hơn 20 năm từng bước hoàn thiện dần cơ chế thị trường mà đến nay vẫn còn nhiều khuyết tật.
Trong bối cảnh mà bạn nói: “Chúng ta tiến hành trong giai đoạn kinh tế trong nước chịu nhiều tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới” thì việc phải đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế là rất cần thiết, nếu không muốn nói là cơ hội để chúng ta đẩy nhanh việc này.
Mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế nước ta là: hướng đến một mô hình kinh tế thị trường hoàn hảo. Theo đó, các quy luật của thị trường được tôn trọng, các kết cấu lớn của nền kinh tế phải được hợp lý trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Phải có chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ đặc thù mang thương hiệu/ giấy thông hành Việt Nam. Tránh một nền kinh tế tiêu thụ, gia công lắp ráp và khai thác, bán thô hầu hết các tài nguyên thiên nhiên cũng như sức lao động cho nước ngòai và cho các đối tác nước ngoài vào Việt Nam.
Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang bộc lộ rất rõ là một nền kinh tế như vậy.
Nguyễn Hưng - Nam 41 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều hành quyết liệt như trong vòng 5 tháng, giảm 5 lần các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng 7 tháng vẫn rất thấp. Một bên thì doanh nghiệp gặp khó khăn, hàng tồn kho lớn, sức mua giảm, không thu hồi được vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp không muốn vay; một bên là ngân hàng muốn cho vay nhưng vẫn phải đáp ứng điều kiện đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Vậy đâu là “nút thắt” và xử lý thế nào để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 10%?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Chào bạn. Tôi đồng ý với nhận định về việc doanh nghiệp khó tiếp cận vốn trong khi nguồn vốn của ngân hàng lại dư thừa.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhiều doanh nghiệp muốn vay vốn nhưng không đủ điều kiện do tình hình tài chính quá yếu, hoạt động kinh doanh giảm sút nghiêm trọng. Ngược lại một số doanh nghiệp đủ điều kiện thì lại hạn chế vay hoặc không vay vì lãi suất cao, hàng hóa đầu ra khó tiêu thụ.
Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng để tháo “nút thắt” các ngân hàng cần phải xem xét phân loại khách hàng theo nhiều nhóm đối tượng, qua đó xây dựng các chính sách và các gói sản phẩm tín dụng cho phù hợp với từng đối tượng.
Ví dụ: đối với những khách hàng đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng nhưng tạm thời gặp khó khăn trong kinh doanh thì ngân hàng cần phải phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp để tiếp tục xem xét tài trợ vốn cho các phương án kinh doanh khả thi, để giúp doanh nghiệp tạo được dòng tiền mới, trả nợ cũ, đồng thời ngân hàng cũng phải đưa ra các cơ chế hỗ trợ như miễn giảm lãi, phí, cơ cấu lại các khoản nợ,..
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Bạn đã nói rất đúng về nguyên nhân tại sao tín dụng 7 tháng đầu năm 2012 tăng ở mức thấp. Để mở rộng tín dụng trong những tháng cuối năm thì vấn đề quan trọng phải giải phóng được hàng tồn kho, khi đó các doanh nghiệp mới có nhu cầu vay vốn để sản xuất tiếp; đẩy mạnh giải ngân vốn ngân sách, vốn đầu tư; hỗ trợ cho các doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn thông qua bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp…
Linh - Nữ 27 tuổi - Analyst:
Năm nay, câu chuyện về tái cấu trúc rất nóng hổi, từ nền kinh tế đến hệ thống ngân hàng. Vậy tôi có một câu hỏi là: Tính đến thời điểm hiện tại, quá trình tái cấu trúc này đã đạt được thành tựu gì? Được và mất ra sao? Và mục tiêu trong ngắn hạn (năm 2012 và 2013) là như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Chủ trương tái cấu trúc từ nền kinh tế đến hệ thống ngân hàng là chủ trương hết sức đúng đắn của Chính phủ để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Riêng với lĩnh vực ngân hàng thì Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành được một số nội dung theo lộ trình của Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 254, như đã nhận diện được các tổ chức tín dụng yếu kém và tiến hành các bước để cơ cấu lại các tổ chức tín dụng này.
Về lộ trình năm 2012 và 2013 thì đã được thể hiện rất rõ tại Quyết định số 254 của Thủ tướng Chính phủ. Theo tôi, cái được lớn nhất của việc tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng là sẽ phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả, có tính cạnh tranh cao, phát huy tốt vai trò trung gian tài chính để là kênh dẫn vốn hiệu quả trong nền kinh tế.
Phạm Anh Tôn - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cháu chào bác Lê Xuân Nghĩa. Hiện nay cháu có đọc một số báo cáo của các tổ chức nước ngoài thì họ dự đoán Việt Nam sẽ hạ lãi suất trong quý tới khoảng 100 - 200bps là tiền đề cho việc tiếp cận vốn giá rẻ, các khoản vay ưu đãi. Vậy việc hạ lãi suất có thể có trường hợp Việt Nam rơi vào bẫy thanh khoản hay không? Lãi suất ở Việt Nam cao như hiện nay có phải là bất hợp lý cho một nền kinh tế đang khó khăn như hiện nay, làm cho các quỹ đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đang rút chạy khỏi Việt Nam? Cháu xin cám ơn!
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Dư địa để ngân hàng hạ lãi suất hiện nay chỉ còn khoảng 2% (nếu giá lương thực thực phẩm không tăng đột biến trở lại). Nếu lãi suất giảm mạnh hơn, thì Việt Nam sẽ rơi vào bẫy thanh khoản và tài sản sẽ bị đảo chiều theo hướng bỏ nội tệ mua ngoại tệ làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên gây bất lợi rất lớn cho sự phục hồi của thị trường tài sản và đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ rất thận trọng trong việc hạ lãi suất từ nay đến cuối năm. Tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm lãi suất 0,25%/tháng và đến cuối năm sẽ giảm khoảng 1%. Và nếu như vậy, tình hình kinh tế vĩ mô sẽ ổn định hơn.
Lê Chiến Thắng - Nữ 35 tuổi - NĐT nhỏ lẻ:
Có thể nói chính sách tiền tệ đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Nhưng vừa rồi và sắp tới hàng loạt giá hàng quan trọng xăng, điện… đồng loạt tăng, liên tiếp tăng thế này thì sao? Lạm phát trở lại thì chủ trương hạ lãi suất cho vay chưa đến đích đã quay ngược. Theo các chuyên gia thì tình hình có thể như thế không? Xin cảm ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Điều quan trọng nhất mà Ngân hàng Nhà nước đang cân nhắc hiện nay là hạ lãi suất đến mức nào trong điều kiện giá nhiên liệu, điện và lương thực thực phẩm có thể tăng. Theo tính toán của chúng tôi, lạm phát cơ bản của Việt Nam (CPI loại bỏ lương thực thực phẩm và xăng dầu) vẫn luôn luôn tăng từ 0,2 đến 0,8%/tháng. Điều này cho thấy hai mặt hàng trên biến động tăng, rất có thể lạm phát sẽ quay trở lại.
Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước chỉ có thể giảm lãi suất từ nay đến cuối năm thêm 1% và có thể chia làm nhiều kỳ để điều chỉnh với mỗi kỳ khoảng 0,25%.
Ngọc Thu - Nữ 33 tuổi - Kế toán:
Theo tôi, nếu không cứu những doanh nghiệp yếu thì sẽ tạo rất nhiều hệ lụy: đời sống xã hội của nhiều người lao động rồi gia đình của họ, ảnh hưởng các mối quan hệ phân phối, sản xuất trong nền kinh tế vì mỗi doanh nghiệp là một mắt xích nào đó và cả hệ lụy nợ xấu ngân hàng… Không nên sằng phẳng đến mức gạt đi việc hỗ trợ lãi suất, nguồn vốn như một số quan điểm nêu ra. Còn quan điểm của quý vị thì sao?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Đóng băng tín dụng làm cho doanh nghiệp suy kiệt nguồn vốn và tiến tới phá sản không phải là do ngân hàng mà đó là một tình huống kinh tế khi mà tổng cầu suy giảm mạnh, nợ xấu tăng cao, lòng tin của các nhà đầu tư lung lay. Căn bệnh này đã xuất hiện ở nhiều nước và đã bóp nghẹt nhiều nền kinh tế và nó cũng đang hiện hữu ở Việt Nam trong một bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm. Vì vậy, để hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay, không chỉ là giảm lãi suất hoặc hô hào cho doanh nghiệp tiếp cận vốn chung chung mà phải có những hành động kinh tế để lấy lại lòng tin giữa doanh nghiệp và ngân hàng và giữa các nhà đầu tư vào triển vọng kinh tế.
Để làm được việc này cần phải có bàn tay của Chính phủ mà trước hết và chủ yếu là xử lý nhanh chóng và toàn diện nợ xấu trên cơ sở đó phục hồi tín dụng, phục hồi thị trường tài sản.
Chính phủ đã có nhiều nỗ lực theo hướng này nhưng xem ra kết quả chưa rõ ràng vì nợ xấu vẫn là vấn đề lớn nhất.
Đào Xuân Thanh - Nam 52 tuổi - Doanh nghiệp:
Xin những đánh giá khách quan từ các lãnh đạo, chuyên gia và hơn hết là những người đang sống và làm việc với chính sách, rằng đâu là những điểm được và chưa được của chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ thời gian qua và hiện nay, cũng như với chính sách tiền tệ? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ trong thời gian qua có mấy cái được: kiểm soát được lạm phát, củng cố được thanh khoản của ngân hàng, ổn định được tỷ giá hối đoái, tăng được khối lượng dự trữ ngoại tệ lên gấp đôi nhưng do những nguyên nhân tích tụ từ nhiều năm trước, nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy giảm tăng trưởng rất khó cứu chữa. Lý do là nợ xấu rất lớn và tăng rất nhanh khiến tín dụng đóng băng, doanh nghiệp suy kiệt vốn và đình đốn ngày càng nghiêm trọng.
Nếu chính phủ không nhanh tay xử lý vấn đề này, Việt Nam sẽ rơi vào một thời kỳ tăng trưởng thấp kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến thành quả đã đạt được về kiểm soát lạm phát và cũng tác động rất xấu đến an sinh xã hội.
Hà Văn Duy - Nam 32 tuổi - Kinh doanh:
Thưa ông/bà hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách cho vay vốn với lãi suất thấp 11% năm. Nhưng thực tế để các doanh nghiệp, cá nhân tiếp cận được là rất ít. Vậy Ngân hàng Nhà nước có nên thực hiện những chính sách mới để các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận được không?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Ngân hàng Nhà nước là cho vay các tổ chức tín dụng thông qua nhiều kênh (lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là 11%/năm; lãi suất tái cấp vốn là 10%/năm; lãi suất nghiệp vụ thị trường mở là 8%/năm), Ngân hàng Nhà nước không cho vay trực tiếp đối với doanh nghiệp và cá nhân.
Từ tháng 8/2011, chủ trương hạ lãi suất cho vay đã được Ngân hàng Nhà nước đặt ra. Từ đầu năm đến nay, cơ quan này đã 5 lần giảm các lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động. Lãi suất cho vay đã giảm đáng kể so với đầu năm. Cùng với đó là chủ trương hạ lãi suất cho các khoản vay cũ về tối đa 15%/năm.
Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng vẫn chưa thể cải thiện rõ rệt, nhiều doanh nghiệp vẫn khó vay vốn và còn nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.
Trước thực tế trên, có quan điểm điểm cho rằng, việc hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời là cần thiết nhưng chỉ nên tập trung ở những đối tượng tốt và có khả năng tồn tại, không nên cứu những doanh nghiệp đã và đang có nguy cơ phá sản; hay nguồn tín dụng cần tăng cường tính chọn lọc trước xu hướng nợ xấu tăng lên.
Quan điểm trên cũng đặt ra vấn đề cần đánh giá cụ thể hiệu quả, trở ngại và hạn chế của các chính sách vĩ mô nói chung và các biện pháp mà Ngân hàng Nhà nước triển khai đã và đang triển khai nói riêng.
Nhằm tạo diễn đàn chia sẻ từ tiếng nói người trong cuộc, ý kiến của chuyên gia độc lập với bạn đọc trong và ngoài trước về những nội dung trên, VnEconomy tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề “Tiếp vốn và niềm tin chính sách”, diễn ra từ 14h00 - 16h30 ngày 10/8/2012, với sự tham gia của các diễn giả:
- Bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Chính sách Tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
- Ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tiền tệ Quốc gia
- Ông Nguyễn Văn Thắng, Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank)
- Ông Nguyễn Đại Lai, chuyên gia tài chính độc lập
Đỗ Thắng Toàn - Nam 36 tuổi - Tư vấn đầu tư:
Xin hỏi các diễn giả: Số liệu thống kê cho thấy lượng vốn đã được bơm ròng vào nền kinh tế kể từ đầu năm đến nay là rất lớn trong khi nền kinh tế lại không thể hấp thu được lượng vốn này. Đây có phải là tín hiệu cho thấy khả năng sẽ bùng phát lạm phát trong giai đoạn kế tiếp hay không khi chu kỳ lạm phát cao - tăng trưởng cao, lạm phát thấp - tăng trưởng thấp của kinh tế Việt Nam đã liên tục lặp lại trong nhiều năm qua?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Trước hết phải khẳng định ngân hàng cũng là một doanh nghiệp. Trong đó khối doanh nghiệp sản xuất là khách hàng của ngân hàng. Doanh nghiệp lao đao thì ngân hàng cũng khó mà bình an. Do đó doanh nghiệp lao đao vật lộn với khó khăn thì ngân hàng cũng bất an theo.
Nợ xấu xảy ra trước hết do người sử dụng vốn, bản thân ngân hàng cũng phải có trách nhiệm về quy trình xét duyệt thầm định và quản trị rủi ro đối với món vay của mình.
Tuy nhiên bản thân doanh nghiệp cũng không bao giờ muốn món vay trở thành nợ xấu. Vì vậy có thể hiểu rằng sức hấp thụ đầu ra của nền kinh tế cũng có vấn đề.
Đó là những vấn đề liên quan đến vĩ mô như: cơ cấu kinh tế bất hợp lý giữa xuất và nhập khẩu, giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa công nghiệp và nông nghiệp…Không đủ sức hấp thụ với việc sản xuất thực tiễn của các loại hình doanh nghiệp tương ứng. Cho nên đúng như bạn nói lỗi để nợ xấu lớn là do cả ba bên với những hàm lượng khác nhau ở những thời điểm khác nhau.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp, xét trên các yếu tố: khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước, lạm phát, thực lực của các tổ chức tín dụng…?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc xác định lãi suất ở mức nào là phù hợp thì còn phụ thuộc vào các diễn biến kinh tế vĩ mô. Các mức trần lãi suất huy động và cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước là dựa trên kỳ vọng lạm phát cả năm 2012 là 7 – 8%, kỳ vọng tỷ giá tăng không quá 2 – 3%.
Hiện nay, lạm phát tháng 7 tăng 5,35% so với cùng kỳ năm 2011 nhưng trung bình 7 tháng đầu năm 2012 so với 7 tháng đầu năm 2011 vẫn tăng ở mức 11,2%. Do vậy, lãi suất có tiếp tục giảm hay không cũng cần phải được cân nhắc cẩn trọng dựa trên xu hướng giảm lạm phát có ổn định hay không.
Nếu lạm phát tiếp tục giảm sâu thì Ngân hàng Nhà nước sẽ cân nhắc giảm lãi suất. Mức giảm lãi suất bao nhiêu cũng cần phải được tính toán cụ thể đảm bảo lợi ích hài giữa người gửi tiền, người vay và của tổ chức tín dụng.
Thuy - Nữ 26 tuổi - Analyst:
Tôi có câu hỏi dành cho hai ngân hàng lớn của Việt Nam là Vietcombank và VietinBank: Thực trạng hoạt động giải ngân tín dụng chính tại ngân hàng các ông trong 7 tháng đầu năm nay như thế nào trong tổng thể chung 0,57% của toàn hệ thống ngân hàng? Mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm nay của các ông như thế nào và đang có giải pháp gì để hiện thực hóa mục tiêu đó cũng như đồng hành cùng các cơ quan quản lý trong giai đoạn hiện nay?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Hoạt động tín dụng của Vietinbank trong 7 tháng đầu năm hiện nay vẫn -2%. Tuy nhiên, so với kết quả của tháng 6 kết quả đã hồi phục được 3%.
Vừa qua trong tháng 6, đầu tháng 7 Vietinbank đã đưa ra 11 chương trình kích thích tín dụng, với lãi suất cho vay rất thấp, từ 9% - 12% cho rất nhiều đối tượng khách hàng; đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu.
Hiện nay Ngân hàng Công thương đang tiếp tục nghiên cứu và đưa ra một số chương trình cho vay ưu đãi khác, chúng tôi cũng tin tưởng từ nay tới cuối năm sự hấp thụ vốn của các doanh nghiệp sẽ khá hơn. Dự kiến mức tăng trưởng tín dụng cuối năm của Ngân hàng Công thương sẽ là 10% - 12%.
Huỳnh Nhựt - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Em là sinh viên ngành kinh tế sắp ra trường nhưng lo lắng cho nền kinh tế của Việt Nam quá. Một nền kinh tế dễ bị tổn thương, ngành ngân hàng đã được Chính phủ bảo lãnh ưu tiên rất nhiều, nhưng những người điều hành ngành ngân hàng vì lợi ích đã mạnh tay cho vay ở những lĩnh vực rất nguy hiểm khi bây giờ gặp khó khăn thì bắt doanh nghiệp, Nhà nước phải gánh chịu. Em thấy đó không công bằng, trong khi doanh nghiệp phải vất vả vật lộn với những khó khăn, không biết ngân hàng có nhìn thấy những điều đó không, sao thấy họ vô cảm quá. Em xin hỏi các vị diễn giả trách nhiệm này thuộc về ai? Đó là lỗi của doanh ngiệp hay ngân hàng hay là lỗi của cả nền kinh tế? Em là sinh viên cũng chưa hiểu sâu xa về vấn đề vĩ mô, cũng như người dân họ chỉ quan tân là đến lúc nào họ mới tin tưởng vào cuộc sống này. Hiện nay đã quá khó khăn rồi.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Trước hết phải thấy ngân hàng là một trung gian tài chính kinh doanh trên cơ sở thu hút vốn từ người có vốn nhàn rỗi để cho vay và làm dịch vụ này để thu phí. Chính vì vậy cho nên ngân hàng đồng thời có hai loain khách hàng mà lợi ích xung đột nhau: người gửi muốn lãi cao và ngược lại.
Đây là nguyên tắc của thị trường.
Lợi ích chia đều cho cả ba bên (người gửi, ngân hàng và doanh nghiệp), tuy nhiên rủi ro chủ yếu có hai bên phải chịu là ngân hàng và doanh nghiệp. Trong khi người gửi tiền được chính phủ bảo hiểm 100% tiền gửi.
Có thể nói lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động có hiệu quả của người vay, nói cách khác rủi ro tín dụng là rủi ro chủ yếu của ngân hàng.
Hiện nay nợ xấu tăng rất cao bởi nhiều lý do: rủi ro chính sách, rủi ro thị trường, rủi ro quản lý (cả phía doanh nghiệp và ngân hàng)... Vì vậy khó có thể nói hoàn toàn là do phía nào.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng doanh nghiệp luôn muốn vay được vốn từ ngân hàng và trách nhiệm của ngân hàng là giám sát các khoản vay đấy. Đồng thời cả ngân hàng và doanh nghiệp cũng cần phải có những thông tin, dự báo để tính toán hiệu quả đầu tư của mình. Đây là điểm rất yếu của cả doanh nghiệp và ngân hàng ở Việt Nam.
Vào những thời điểm kinh tế thuận lợi, doanh nghiệp đổ xô đầu tư và ngân hàng cũng dễ dãi cho vay, họ không hề biết những gì đang chờ đợi họ phía trước. Thị trường buộc mọi người phải trả giá cho những khoản đầu tư sai lầm của mình.
Nhiều doanh nghiệp thậm chí đầu tư chủ yếu vào bất động sản với kỳ vọng kiếm lời nhanh chóng và rủi ro lớn nhất chính là ở thị trường này khi giá bất động sản giảm. Chính vì vậy, không nên đổ lỗi cho một bên nào trong câu chuyện vay và cho vay và đó cũng là quan điểm của Chính phủ khi xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng, tức là buộc cả ngân hàng và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm và tổn thất có thể có.
Nếu Chính phủ quan tâm gỡ bỏ những tắc nghẽn về tín dụng để cho dòng vốn hoạt động bình thường trở lại và trên nền tảng đó doanh nghiệp và ngân hàng mới có thể phục hồi được.
Nói tóm lại, nợ xấu lớn như hiện nay có khả năng hủy hoại nền kinh tế rất nghiêm trọng và Chính phủ đang tìm cách để xử lý.
Nguyen Nguyen An - Nam 35 tuổi - Nđt:
Xin được hỏi thêm các diễn giả: ở thời điểm này đã có thể dự tính được các chính sách vĩ mô, chính sách tiền tệ cho năm 2013 chưa? Nếu chưa thì nên theo hướng nào? Cá nhân tôi e rằng lạm phát sẽ quay trở lại vào cuối năm vì lãi suất đã giảm rất nhanh, nhiều mặt hàng ảnh hưởng lớn liên tiếp tăng giá... Sự e ngại đó có đúng không? Xin cảm ơn các diễn giả.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Đúng là hiện này các chỉ tiêu kinh tế của năm 2013 còn đang được các bộ ngành xây dựng và đến khoảng tháng 10 năm nay, tại kỳ họp Quốc hội mới được thông qua chính thức. Việc bạn e ngại lạm phát quay trở lại vào cuối năm cũng là những điều mà chúng tôi đã tính tới. Tuy nhiên, từ nay đến cuối năm, Ngân hàng Nhà nước cũng như các bộ ngành phải theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều chỉnh cho phù hợp, đảm bảo lạm phát không bùng phát trở lại.
Thu Cúc - Nữ 39 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Từ 2008 đến nay, mỗi khi lạm phát tăng, Ngân hàng Nhà nước lại thắt chặt, đến khi doanh nghiệp kêu khó, ngân hàng kêu khó Ngân hàng Nhà nước lại nới lỏng và lạm phát lại bùng lên. Lần này, có vẻ như đang lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Có ý kiến cho rằng, không thể kéo dài tình trạng đầu tư dàn trải, lấy vốn làm chỗ dựa cốt yếu cho tăng trưởng, nhất là khi mà quy mô tín dụng đã gấp trên 1,2 lần so với GDP. Vì thế, trước những khó khăn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên hỗ trợ cho những doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp có cơ hội trụ được qua khó khăn, còn những doanh nghiệp ốm yếu, những ngành hàng đầu tư phá vỡ quy hoạch như thép, cần phải để quá trình sàng lọc tự nhiên đào thải. Ý kiến ông/bà như thế nào?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Việc nới lỏng tiền tệ và tín dụng có vẻ như đang được các nhà hoạch định chính sách quan tâm, có thể gây nên lạm phát hay không là một trong những cân nhắc lớn nhất của chính phủ hiện nay.
Trước hết cần thấy năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng phương thức điều hành tiền tệ hoàn toàn mới khác với từ trước lại nay. Đó là điều hành theo lạm phát mục tiêu. Ngân hàng Nhà nước không xin Chính phủ hạn mức phát hành tiền như những năm trước mà đề nghị cho phép chủ động bơm hút tiền nhằm đảm bảo mục tiêu lạm phát đề ra, hay nói cách khác Ngân hàng Nhà nước nhìn lạm phát kỳ vọng để bơm và hút tiền.
Với cách làm này, dường như Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn độc lập với mong muốn tăng trưởng hoặc thu hẹp tín dụng của Chính phủ và đó là cách điều hành tiền tệ hiện đại theo thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, khi Chính phủ có dấu hiệu nới lỏng ngân sách thậm chí mong muốn nới lỏng tín dụng thì Ngân hàng Nhà nước sẽ nhìn vào lạm phát để quyết định.
Lạm phát năm nay có thể xuống rất thấp và nó có thể tăng lên ở mức cao hơn vào năm tới theo nguyên tắc "con lắc thị trường" và sẽ ổn định dần trong những năm tiếp theo. Ví dụ 2012, lạm phát có thể ở mức 5% và 2013, lạm phát có thể ở mức 9-11% và đó là điều bình thường.
Tôi tin rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ không dễ dàng nới lỏng tiền tệ như những năm trước đây.
Phạm Anh Tôn - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cháu chào cô Hồng! Hiện nay như cháu theo dõi thì chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là hạ các khoản vay cũ xuống 15% để hỗ trợ doanh nghiệp. Vậy thì việc này thực tế đã đi vào thực tiễn chưa? Vì cháu thấy có rất nhiều doanh nghiệp vẫn kêu ca chưa có thông báo gì, hơn nữa việc thực hiện “lời kêu gọi” này chủ yếu đối tượng ngân hàng được nhắm đến là các ngân hàng thương mại nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần khác thì Ngân hàng Nhà nước có cách gì để yêu cầu hạ lãi suất xuống 15% không ạ? Hơn nữa việc hạ lãi suất các khoản vay cũ xuống thì ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại, vậy thì có cách nào vừa tháo gỡ được khó khăn cho doanh nghiệp lại vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận của ngân hàng không ạ? Cháu xin cám ơn.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc giảm lãi suất của các khoản vay cũ về mức tối đa là 15% đã và đang được các tổ chức tính dụng ủng hộ và triển khai mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 3 tuần từ 15/7, tỷ trọng dư nợ cho vay có lãi suất trên 15% đã giảm xuống còn 29%, giảm khoảng 87% so với trước 15/7.
Thời gian tới Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đề nghị các ngân hàng thương mại cổ phần phối hợp với doanh nghiệp ra soát các khoản vay để có thể giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất này sẽ làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng nhưng là cũng cần thiết để khơi thông dòng vốn tín dụng, làm cho khách hàng tin tưởng và gắn bó hơn với ngân hàng.
Việc giảm lãi suất các khoản vay cũ có thể chậm hơn ở một số ngân hàng thì doanh nghiệp và người dân cũng nên cảm thông với những ngân hàng này vì bản thân họ cũng đang gặp khó khăn về tài chính.
Vũ Kim Oanh - Nữ 31 tuổi - NVKD:
Tôi vừa đọc tin thấy Ngân hàng Nhà nước đã cho tăng trưởng tín dụng một số ngân hàng lên 25 - 27%. Xin được hỏi là như vậy thì vốn có đến được với doanh nghiệp nhiều hơn không? Đầu năm thắt chặt chỉ tiêu, giữa năm nới rộng như vậy có hợp lý và thiếu nhất quan không? Xin cám ơn.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Vốn có đến được với doanh nghiệp không thì phụ thuộc vào các doanh nghiệp đó có đáp ứng đủ các quy định của pháp luật hiện hành về cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không. Việc cho phép một số tổ chức tín dụng được tăng trưởng tín dụng 25 – 27% là phù hợp với điều kiện tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đang rất thấp. Để đảm bảo việc mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn thì Ngân hàng Nhà nước chỉ cho phép đối với các tổ chức tín dụng có đề nghị và có hoạt động tài chính lành mạnh.
Thu Cúc - Nữ 39 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Từ 2008 đến nay, mỗi khi lạm phát tăng, Ngân hàng Nhà nước lại thắt chặt, đến khi doanh nghiệp kêu khó, ngân hàng kêu khó Ngân hàng Nhà nước lại nới lỏng và lạm phát lại bùng lên. Lần này, có vẻ như đang lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Có ý kiến cho rằng, không thể kéo dài tình trạng đầu tư dàn trải, lấy vốn làm chỗ dựa cốt yếu cho tăng trưởng, nhất là khi mà quy mô tín dụng đã gấp trên 1,2 lần so với GDP. Vì thế, trước những khó khăn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên hỗ trợ cho những doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp có cơ hội trụ được qua khó khăn, còn những doanh nghiệp ốm yếu, những ngành hàng đầu tư phá vỡ quy hoạch như thép, cần phải để quá trình sàng lọc tự nhiên đào thải. Ý kiến ông/bà như thế nào?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Đúng như băn khoăn của bạn, nước ta đang điều hành nền kinh tế thị trường nhưng bằng đồng thời cả hai công cụ: hành chính và thị trường, thậm chí công cụ hành chính còn mang tính trội nhiều hơn.
Nên không thể tránh khỏi những cú đột biến của chính sách tác động vào quy luật của thị trường, bao gồm cả những tác động xuôi chiều và ngược chiều, cả sự không đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa…làm cho tình trạng lạm phát luôn có xu hướng bùng lên. Đương nhiên mỗi khi bị lạm phát bùng lên thì các cấp các ngành lại ra sức chống lạm phát.
Lẽ ra nếu tuân thủ đúng các quy luật của thị trường về lưu thông tiền tệ, thanh tóan thì cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất (nếu không muốn nói là duy nhất) phải là Ngân hàng Trung ương. Kể cả những đầu tư từ ngân sách cũng phải tuân theo chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên ở Việt Nam ngân hàng Nhà nước chưa hoàn tòan là ngân hàng Trung ương của nền kinh tế thị trường nên việc chống lạm phát vẫn còn là việc chung của Chính phủ, của các Bộ, ngành, địa phương.
Về giải pháp, đúng là không nên cứu đồng loạt đối với tất cả các tình trạng doanh nghiệp, mà chỉ nên tập trung vốn, thị trường cho các doanh nghiệp có khả năng trụ được và phát triển. Đối với những doanh nghiệp ở tình trạng yếu kém không thể đứng vững ngay cả khi được tăng cường hỗ trợ vốn thì nên cho phá sản. Hoặc như bạn nói là để cho quy luật thị trường sàng lọc và đào thải.
Trong chiến lược trung và dài hạn nên sớm chuyển mô hình hoạt động của ngân hàng Nhà nước hiện nay sang mô hình ngân hàng Trung ương của nền kinh tế thị trường – theo đó, ngân hàng Trung ương phải lấy mục tiêu giữ ổn định giá trị sức mua đối nội, đối ngoại của đồng nội tệ là mục tiêu chiến lược.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp, xét trên các yếu tố: khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước, lạm phát, thực lực của các tổ chức tín dụng…?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Lãi suất biến động hoàn toàn không theo mong muốn của chúng ta mà đó là một loại giá cả vĩ mô quan trọng và có tính khách quan, thị trường. Từ giữa năm 2011 lại nay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ rất lớn, khiến cho dân chúng, doanh nghiệp và các ngân hàng chuyển tài sản từ ngoại tệ sang nội tệ để hưởng lãi suất cao.
Tuy nhiên, chênh lệch đó hiện đang bị thu hẹp. Giả định lãi suất huy động ngoại tệ trung bình 4%/năm trừ đi lạm phát của Mỹ 2%/năm + lạm phát của Việt Nam 5%/năm và rủi ro hối đoái 2%/năm, trong khi lãi suất huy động VND bình quân 11%/năm, thì chênh lệch thực tế giữa lãi suất VND và ngoại tệ là 2%/năm.
Đây là dư địa duy nhất còn lại để Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất. Tuy nhiên dư địa này cũng rất mong manh vì chỉ số lạm phát của Việt Nam có 40% trọng số là lương thực thực phẩm thường tăng lên theo mùa vụ đặc biệt là cuối năm. Điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước trên thực tế chỉ còn dư địa 1% để điều chỉnh lãi suất từ nay đến cuối năm.
Nếu lãi suất xuống thấp hơn, dân chúng, doanh nghiệp và ngân hàng sẽ dịch chuyển tài sản ngược lại từ nội tệ sang ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ biến động mạnh và có thể gây những bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng.
Ngoài ra, nợ xấu cũng là một yếu tố khiến cho các ngân hàng thương mại không thể giảm lãi suất cho vay xuống mặc dù lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh vì họ phải trích lập dự phòng rủi ro và tăng chi phí xử lý nợ xấu.
TS. Hưng - Nam 43 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Việc giảm đồng loạt lãi suất các khoản vay cũ đối với tất cả lĩnh vực, các đối tượng có thể dẫn đến rủi ro lãi suất thế nào cho hệ thống ngân hàng? Ngân hàng thương mại có biện pháp gì để khắc phục rủi ro không?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Trong thời gian vừa qua các ngân hàng thương mại đã đồng loạt hạ lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Rủi ro có thể xảy ra ở đây: ngân hàng là trung gian huy động vốn để cho vay, khi một khoản tín dụng được cấp ra đồng nghĩa với việc ngân hàng đã phải huy động từ trước đó một khoản vốn tương ứng với kỳ hạn và lãi suất đã được xác định. Trong khi đó lãi suất đầu ra phải giảm ngay, mà lãi suất huy động muốn giảm được thì phải có độ trễ, thường phải khoảng 3 tháng.
Giải pháp tổng thể của ngân hàng để hạn chế rủi ro, đó là nhanh chóng cơ cấu lại nguồn vốn như tìm kiếm và thu hút các nguồn vốn có lãi suất thấp để kéo lãi suất huy động bình quân xuống.
Ở Vietinbank khi thực hiện giảm lãi suất cho vay <= 15% , bình quân một ngày chúng tôi sẽ thiêt hại khoảng 6,5tỷ – 7 tỷ đồng. Buộc Vietinbank phải sàng lọc, loại bỏ bớt các nguồn vốn có lãi suât cao và bù vào đó là việc tìm kiếm các nguồn vốn có lãi suất tốt hơn để cơ cấu lại lãi suất huy động bình quân. Đồng thời tích cực đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, nhằm tăng quy mô và tăng doanh thu.
Kết quả đạt được sau một tháng, thiệt hại từ việc giảm lãi suất được rút xuống còn 2 - 2,5 tỷ đồng/ngày.
Ho Binh Minh - Nam 42 tuổi - Phóng viên:
Câu hỏi gửi bà Nguyễn Thị Hồng: Xin bà cho biết chính sách phát triển tín dụng cụ thể của Ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn năm tháng cuối năm và dự báo tăng trưởng tín dụng của cả năm 2012. Xin cảm ơn!
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Trong 5 tháng cuối năm, để mở rộng tín dụng Ngân hàng Nhà nước cũng đã cho phép một số tổ chức tín dụng được tăng trưởng tín dụng vượt mức thông báo đầu năm. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng sẵn sàng cung ứng tiền qua các kênh để hỗ trợ nguồn vốn cho việc mở rộng tín dụng, toàn hệ thống phấn đấu năm 2012 tăng trưởng tín dụng ở mức 8 – 10%.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp, xét trên các yếu tố: khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước, lạm phát, thực lực của các tổ chức tín dụng…?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Về vấn đề giảm lãi suất hiện nay không chỉ là sự quan tâm của doanh nghiệp và xã hội, mà còn là sự quan tâm của chính hệ thống các ngân hàng. Lãi suất thấp hay cao suy cho cùng là phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của người vay.
Tuy nhiên khả năng này lại tùy thuộc vào: lạm phát, lãi suất huy động, chi phí hoạt động của ngân hàng. Trên thực tế đà tăng lạm phát đang giảm, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đang yếu đó chính là những nhân tố khách quan buộc lãi suất phải giảm.
Lê Việt Anh - Nam 28 tuổi - Kinh doanh:
Là một người trẻ và theo dõi kinh tế thường xuyên tôi rất ngưỡng mộ TS. Lê Xuân Nghĩa. Tôi xin đặt một câu hỏi với tiến sĩ như sau: Muốn khơi thông dòng tín dụng thì phải giải quyết được nợ xấu, kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy chi phí để giải quyết nợ xấu chỉ là một phần, còn cái quyết định để giải quyết thành công nợ xấu đó là: cách làm - cơ chế - bộ máy nhân sự (những yếu tố này cũng quyết định tới tổng chi phí để giải quyết nợ xấu). Vậy theo tiến sĩ ba vấn đề này sẽ được làm theo cách nào, mất khoảng bao lâu để chúng ta thống nhất xong? Xin cảm ơn tiến sĩ và chúc tiến sĩ khỏe.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Kinh nghiệm thế giới cho thấy xử lý nợ xấu với khối lượng lớn thì mô hình AMC tổng hợp là hiệu quả nhất. Điều này đã được thực hiện thành công ở Thụy Điển, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản...
Ở Việt Nam, chúng tôi cũng cho rằng cần thiết phải có AMC để nhanh chóng giải tỏa toàn bộ nợ xấu từ các ngân hàng ra khỏi bảng tổng kết tài sản và chuyển sang cho AMC quản lý chuyên biệt. Trên cơ sở đó, làm tăng thêm vốn (tiền tươi) cho các ngân hàng thương mại để đẩy tín dụng ra cho nền kinh tế.
Việc còn lại là xử lý nợ xấu giữa AMC và các doanh nghiệp, kinh nghiệm quốc tế có thể phối hợp 4 cách:
- Thứ nhất, biến nợ trở thành vốn góp cổ phần của AMC tại doanh nghiệp và trả lại cho doanh nghiệp toàn bộ tài sản thế chấp để doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng bình thường.
- Thứ hai là bán sỉ và bán lẻ nợ và tài sản thế chấp cho các nhà đầu tư trên thị trường nợ.
- Thứ ba là chứng khoán hóa nợ và bán ra thị trường vốn (cách này Việt Nam khó làm vì thị trường vốn chưa phát triển)
- Thứ tư là xóa nợ, ví dụ cho các đối tượng chính sách, nông dân, nông nghiệp, nông thôn có nợ xấu vì lý do khách quan như thiên tai, dịch bệnh...
Đúng như anh nói, rất cần cơ chế và bộ máy nhân sự tốt và các nước thường lợi dụng bộ máy hiện có để tiến hành nhanh chóng, ví dụ như sử dụng ngân hàng phát triển hoặc bảo hiểm tiền gửi để quản lý tài sản còn người quyết định mua bán và cơ chế mua bán thì do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Phạm Hưng Hà - Nam 44 tuổi - Giám đốc:
Thống đốc Bình có lần nói trên VnEconomy là nói trước làm sau, nói được là phải làm cho được. Tôi nhớ đại ý thế. Điều này là rất tốt để doanh nghiệp không bị giật mình, mất phương hướng, để chủ động làm việc. Nhưng tôi e là Ngân hàng Nhà nước có thực sự được độc lập, chủ động và toàn quyền khi dự kiến chính sách và điều hành chính sách không? Mong được trả lời.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Thực tế trong vòng một năm qua, chính sách của Ngân hàng Nhà nước đã thực sự chủ động dẫn dắt thị trường nhất là chính sách lãi suất và tỷ giá. Ngay từ đầu năm, Thống đốc đã tuyên bố giảm lãi suất theo lộ trình và mức tăng tỷ giá đối đa của năm 2012. Kết quả cho thấy là Ngân hàng Nhà nước đã đạt được mục tiêu này. Đến nay, mặt bằng lãi suất đã giảm mạnh so với đầu năm, tỷ giá ổn định, điều này đã góp phần nâng cao xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.
Đăng Tuấn - Nam 41 tuổi - Doanh nghiệp:
Thật là… vô lý. Doanh nghiệp tốt, khỏe thì cần gì hỗ trợ! Ngân hàng và chính sách còn phải dựa vào họ chứ. Doanh nghiệp yếu, khó khăn có nguy cơ đổ vỡ thì mới cần hỗ trợ. Oái ăm là ngân hàng lại không thể cho vay vì nguy cơ đó. Vậy không lẽ chúng ta đứng nhìn lượng doanh nghiệp phá sản gia tăng đều đều như vậy sao? Mỗi ngân hàng chỉ cần chia sẻ 10 – 20% lợi nhuận năm nay thì sẽ cứu được hàng nghìn doanh nghiệp!
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Cảm ơn câu hỏi rất thú vị của bạn.
Tôi cũng đồng ý với quan điểm là với các doanh nghiệp yếu và khó khăn rất cần có sự hỗ trợ từ các bộ, ngành, trong đó có ngành ngân hàng.
Ở VietinBank, chúng tôi luôn tích cực trong việc xem xét hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp là các khách hàng truyền thống, đã gắn bó với VietinBank nhiều năm. Thực tế chỉ tính việc giảm lãi suất VietinBank đã hỗ trợ doanh nghiệp một khoản ước tính 1.500 - 1800 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận mỗi một ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp. Do vậy họ vẫn phải đảm bảo các mục tiêu kinh doanh đã đặt ra, qua đó đảm bảo được quyền lợi cho các cổ đông và người lao động. Nên chúng ta cũng không thể đòi hỏi các ngân hàng phải chia sẻ bao nhiêu % lợi nhuận. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức khỏe của từng ngân hàng.
Với quan điểm cá nhân, tôi cho rằng bên cạnh sự giúp đỡ từ ngân hàng, các doanh nghiệp cũng cần tìm kiếm các nguồn hỗ trợ khác, đồng thời cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính, nhằm hạn chế thấp nhất tổn thất có thể xảy ra.
Thu Cúc - Nữ 39 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Trong một năm qua, Ngân hàng Nhà nước phải đối mặt với hàng loạt vấn đề: ổn định tỷ giá, ổn định thị trường vàng, không để thị trường vàng xáo trộn và tác động xấu đến tỷ giá lại vừa thực hiện đề án tái cấu trúc ngân hàng trong khi lời than phiền về lãi suất cao, khó tiếp cận vốn mỗi ngày một nhiều thêm. Như vậy theo lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước là áp lực có quá lớn không, có vì thế mà hạn chế đến hiệu quả điều hành?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Đúng là trong vòng một năm qua, Ngân hàng Nhà nước phải chịu áp lực và đối mặt với một loạt các vấn đề như bạn nói. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự đồng lòng và quyết tâm của toàn ngành, sự chỉ đạo quyết liệt và hết sức trách nhiệm của ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã đạt được rất nhiều kết quả: hoạt động của hệ thống ngân hàng về cơ bản là ổn định, kể cả trong quá trình thực hiện cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; mặt bằng lãi suất giảm, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao…
Nguyễn Hưng - Nam 41 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều hành quyết liệt như trong vòng 5 tháng, giảm 5 lần các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng 7 tháng vẫn rất thấp. Một bên thì doanh nghiệp gặp khó khăn, hàng tồn kho lớn, sức mua giảm, không thu hồi được vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp không muốn vay; một bên là ngân hàng muốn cho vay nhưng vẫn phải đáp ứng điều kiện đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Vậy đâu là “nút thắt” và xử lý thế nào để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 10%?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Vấn đề cốt lõi nhất của Việt Nam trước mắt là xử lý nợ xấu, phá băng tín dụng. Trong điều kiện hiện nay, cần phải có bàn tay Chính phủ vì nợ xấu đã quá lớn và tăng rất nhanh cùng với tốc độ phá sản ngày càng mạnh của doanh nghiệp.
Tôi cho rằng nếu Chính phủ không sớm đưa vấn đề này ra để giải quyết thì kinh tế Việt Nam có thể rơi vào tình trạng suy giảm nghiêm trọng kéo dài nhiều năm khi mà nền tảng của nó là phần lớn các doanh nghiệp đã suy kiệt tới mức không thể cứu vãn được.
Có vẻ như nhiều người chưa nhận ra tính chất nghiêm trọng của vấn đề này. Chúng ta hy vọng bằng nỗ lực của mình Chính phủ có thể cứu vãn được tình thế mà theo đánh giá của tôi là rất xấu này.
Như Thành - Nam 40 tuổi - Doanh nghiệp:
Xin chào Tổng giám đốc VietinBank. Cho tôi hỏi, là ngân hàng luôn dẫn đầu hệ thống về lợi nhuận, luôn có tỷ lệ lãi cận biên lớn như vậy (5,5 - 6%), thì VietinBank đã thực sự chia sẻ, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp chưa? Mong ông trả lời và chúc ông sức khỏe.
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Cảm ơn bạn.
Theo kết quả kinh doanh 7 tháng đầu năm 2012, thì NIM của Vietinbank hiện nay chỉ ở mức 2 – 2,5%, và đang có chiều hướng thấp hơn.
Đó là kết quả của việc Vietinbank đã giảm lãi suất đầu ra, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn. Và như tôi đã trả lời ở trên, với việc giảm lãi suất Vietinbank đã hỗ trợ doanh nghiệp một khoản ước tính 1.500tỷ – 1800 tỷ đồng/năm.
Nguyễn Hưng - Nam 41 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều hành quyết liệt như trong vòng 5 tháng, giảm 5 lần các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng 7 tháng vẫn rất thấp. Một bên thì doanh nghiệp gặp khó khăn, hàng tồn kho lớn, sức mua giảm, không thu hồi được vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp không muốn vay; một bên là ngân hàng muốn cho vay nhưng vẫn phải đáp ứng điều kiện đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Vậy đâu là “nút thắt” và xử lý thế nào để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 10%?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Bản thân câu hỏi của bạn đã bao gồm rất nhiều nội dung để trả lời câu hỏi của chính bạn: những chính sách kịp thời và quyết liệt của ngân hàng Nhà nước về tần suất giảm lãi suất, về lĩnh vực ưu tiên dẫn vốn, về chỉ đạo các tổ chức tín dụng khắc phục khó khăn và chấp hành nghiêm chế độ chính sách trong việc phát triển tín dụng…nhưng doanh nghiệp vẫn khó khăn nợ xấu vẫn ra tăng, các điều kiện để tăng tín dụng vẫn rất khó khăn…vì vậy nút thắt nằm chính ở năng lực tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế và nằm ở nợ xấu ngân hàng.
Phạm Hưng Hà - Nam 44 tuổi - Giám đốc:
Thống đốc Bình có lần nói trên VnEconomy là nói trước làm sau, nói được là phải làm cho được. Tôi nhớ đại ý thế. Điều này là rất tốt để doanh nghiệp không bị giật mình, mất phương hướng, để chủ động làm việc. Nhưng tôi e là Ngân hàng Nhà nước có thực sự được độc lập, chủ động và toàn quyền khi dự kiến chính sách và điều hành chính sách không? Mong được trả lời.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Ngân hàng Nhà nước đã có những cải cách lớn trong việc điều hành chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát mục tiêu và chính sách này khó có thể đảo ngược, hơn nữa Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng là một người khá cứng rắn trong việc duy trì mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra, Chính phủ, Quốc hội trong những năm qua cũng đã rút được những bài học rất quan trọng về xử lý mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng với phương châm hiện nay là kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý và điều này cũng gián tiếp đề cao vai trò độc lập của Ngân hàng Nhà nước.
Với phương châm này, chúng ta có thể dự đoán Việt Nam sẽ bước vào một thời kỳ kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát tương đối thấp nhưng tăng trưởng cũng chỉ ở mức 5,5-6%/năm kéo dài trong vòng vài ba năm.
Nguyen Toan - Nam 32 tuổi - PV:
Xin hỏi các diễn giả, mức tăng trưởng tín dụng 8 – 10% đến cuối năm nay mà Ngân hàng Nhà nước dự tính có khả thi không? Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Đại Lai:
Đối với bối cảnh kinh tế hiện nay, mức tăng trưởng tín dụng 8 - 10% đến cuối năm có khả thi hay không, không còn tùy thuộc duy nhất vào nguồn của ngân hàng, mà tùy thuộc chủ yếu vào sức hấp thụ an toàn của nền kinh tế.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Ngân hàng Nhà nước đã có những cải cách lớn trong việc điều hành chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát mục tiêu và chính sách này khó có thể đảo ngược, hơn nữa Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng là một người khá cứng rắn trong việc duy trì mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra, Chính phủ, Quốc hội trong những năm qua cũng đã rút được những bài học rất quan trọng về xử lý mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng với phương châm hiện nay là kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý và điều này cũng gián tiếp đề cao vai trò độc lập của Ngân hàng Nhà nước.
Với phương châm này, chúng ta có thể dự đoán Việt Nam sẽ bước vào một thời kỳ kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát tương đối thấp nhưng tăng trưởng cũng chỉ ở mức 5,5-6%/năm kéo dài trong vòng vài ba năm.
Theo tôi tăng trưởng tín dụng từ nay đến cuối năm giỏi lắm chỉ đạt 6-8% và mức tăng trưởng này cũng tốt vì thời gian không còn nhiều. Nếu tăng trưởng quá nhanh trong vòng một thời gian ngắn thì lạm phát sẽ tăng lên vào các tháng tới.
Theo tính toán của chúng tôi, nếu tăng trưởng tín dụng đến cuối năm là 6%, thì tăng trưởng kinh tế năm nay khoảng 5,1% và lạm phát 5 tháng sau đó khoảng 0,5%/tháng,
Nếu tăng trưởng tín dụng là 8% thì tương ứng tăng trưởng kinh tế 5,3%, lạm phát 5 tháng sau đó là xấp xỉ 1%/tháng.
Và nếu tăng trưởng tín dụng 9-10%, thì tăng trưởng kinh tế 5,5%, lạm phát 5 tháng sau đó sẽ là từ 1-1,5%/tháng.
TS. Hưng - Nam 43 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Theo số liệu thông báo của Ngân hàng Nhà nước thì đến 2/8/2012 dư nợ cho vay VND với mức lãi suất trên 15%/năm trong hệ thống ngân hàng hiện chỉ còn chiếm tỷ trọng là 29,1%/tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đây là một mức giảm rất lớn và mạnh trong thời gian ngắn. Đây là kết quả của sự đồng thuận hay do sức ép của mệnh lệnh hành chính? Và tại sao tỷ lệ giảm dư nợ cho vay lãi suất các khoản vay cũ về mức tối đa 15%/năm của các ngân hàng thương mại cổ phần lại chậm hơn so ngân hàng thương mại Nhà nước và nhóm ngân hàng nước ngoài?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc đề nghị các tổ chức tín dụng giảm lãi suất của các khoản cho vay cũ về mức tối đa là 15%/năm không phải là mệnh lệnh hành chính mà là lời hiệu triệu của Thống đốc nhằm chia sẻ khó khăn đối với doanh nghiệp và người dân. Như tôi đã trả lời ở trên, thì chỉ trong vòng 3 tuần từ 15/7, tỷ trọng dư nợ cho vay có lãi suất trên 15% đã giảm xuống còn 29%, giảm khoảng 87% so với trước 15/7, điều đó cho thấy được sự đồng lòng và ủng hộ của các tổ chức tín dụng.
Còn việc tỷ lệ giảm dư nợ cho vay lãi suất các khoản vay cũ về mức tối đa 15%/năm của các ngân hàng thương mại cổ phần lại chậm hơn so ngân hàng thương mại Nhà nước và nhóm ngân hàng nước ngoài là do họ không có lợi thế về quy mô, do lãi suất đầu vào của các ngân hàng này cao hơn hoặc có thể một số ngân hàng gặp khó khăn về tài chính… nên chưa thể giảm nhanh được.
Luc Van Ninh - Nam 33 tuổi - Ngân hàng nhỏ:
Kính gửi ông Thắng: Đáng lẽ VietinBank là ngân hàng lớn, có vai trò và trách nhiệm lớn trong hệ thống đối với nền kinh tế. Nhưng như ông Thắng nói đã 7 tháng mà tín dụng vẫn âm 2%. Chỉ cần VietinBank tăng 1% đã bằng 4 - 5 ngân hàng nhỏ khác tăng được 5 - 10%. Tôi cho rằng đây là vấn đề trách nhiệm. Ông và VietinBank có nhìn nhận thẳng như vậy ở diễn đàn này không? Cảm ơn ông và mong ông trả lời thật lòng.
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Chào bạn, vấn đề ở đây không phải là Vietinbank không muốn tăng trưởng tín dụng, mà đó là vấn đề hấp thụ vốn của các doanh nghiệp. Chúng tôi cũng rất mong muốn đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ, qua đó tăng trưởng quy mô tổng tài sản và hiệu quả.
Vietinbank đã đưa ra hàng loạt các chương trình cho vay áp dụng với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, với lãi suất rất thấp, Nhưng kết quả đạt được không như mong muốn, dòng vốn được hấp thụ rất chậm.
Tuy nhiên chúng tôi cũng hy vọng những tháng cuối năm tình hình này sẽ được cải thiện và kết thúc tháng 8 ngân hàng sẽ hồi phục được quy mô tín dụng và đạt được kết quả tăng trưởng tín dụng 10% – 12% vào cuối năm
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Xin hỏi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, trước thực tế tín dụng tiếp tục tăng trưởng thấp trong 7 tháng qua, trong khi doanh nghiệp đang rất cần vốn, được biết Ngân hàng Nhà nước đã cử nhiều đoàn công tác xuống tận các địa phương tìm hiểu thực tế để có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời. Vậy thông tin nhận được từ những cuộc tiếp xúc trên là những gì? Ngân hàng Nhà nước sẽ làm gì để góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều đoàn công tác đến các tỉnh, phối hợp với lãnh đạo địa phương để tổ chức hội nghị kết nối giữa ngân hàng và doanh nghiệp trên địa bàn. Qua thông tin từ các Đoàn công tác, các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã và đang tích cực triển khai, phối hợp với doanh nghiệp rà soát các khoản vay để giảm lãi suất.
Tại những hội nghị kết nối này, các doanh nghiệp cũng đã phản ánh những vướng mắc khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có những khó khăn về lãi suất, tín dụng. Lãnh địa phương, Đoàn công tác của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng trên địa bàn cũng đã giải đáp và cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Huỳnh Anh Dũng - Nam 39 tuổi - Banker:
Nhiều ý kiến cho rằng một vướng mắc của chính sách, của hỗ trợ, của hồi phục hiện nay là nợ xấu quá lớn. Dường như Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng còn rất thụ động trong việc xử lý vướng mắc này, dù chúng ta đã có nhiều rào cản pháp lý để ngăn chặn. Xin hỏi các diễn giả, làm sao chúng ta xử lý tốt được nó và đến bao giờ mới có thể nhẹ nhàng được?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Xử lý nợ xấu là một vấn đề cấp bách nhất hiện nay, càng chậm thì nợ xấu càng lớn vì doanh nghiệp càng phá sản nhiều hơn và kinh tế càng đình đốn, đòi hỏi Chính phủ phải có quyết tâm chính trị lớn.
Trong điều kiện hiện nay, Chính phủ cần có một nghị định riêng về xử lý nợ xấu và có một định chế tài chính để xử lý. Các nước đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm về xử lý nợ xấu, vấn đề là chúng ta có quyết tâm làm hay không.
Vốn để xử lý nợ xấu không phải là trở ngại chủ yếu, Chính phủ có thể huy động trái phiếu, dự phòng rủi ro hiện nay để hoàn tất quá trình này. Tuy nhiên, cần phải được sự đồng thuận rộng rãi của các cấp các ngành và của công luận. (Nhật Bản là một bài học thất bại về xử lý nợ xấu, làm cho nền kinh tế đình đốn 15 năm trời, thị trường bất động sản không phục hồi được chỉ vì tranh luận quá lâu về cách làm, đặc biệt là những vấn đề về lợi ích).
Vì vậy, bản thân tôi cũng rất lo ngại Việt Nam sẽ rơi vào tình cảnh này.
Bui Hoang Long - Nam 40 tuổi - Nhan vien ngan hang:
Tại thời điểm này đến hết năm 2013, thì chính sách tài chính công đi trước hay chính sách tiền tệ hoặc linh hoạt giữa hai chính sách?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc vào tỷ lệ đầu tư toàn xã hội, tuy nhiên tỷ lệ này đang giảm rất mạnh từ 41,5% GDP năm 2010 xuống còn 34,5% trong năm 2011 và dự kiến chỉ còn 31,5% trong năm 2012.
Trong đó, đầu tư toàn xã hội lại phụ thuộc vào ba yếu tố: FDI, đầu tư công và tăng trưởng tín dụng (đầu tư tư).
FDI về cơ bản là ổn định, như vậy tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc hai yếu tố còn lại. Hai yếu tố này bổ sung cho nhau và tạo ra những hiệu ứng lan tỏa lẫn nhau trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, tốt nhất là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa đầu tư công và tín dụng. Ví dụ, quý I hàng năm, khi đầu tư công giải ngân chậm (do thủ tục), thì lẽ ra tín dụng phải tăng mạnh hơn. Ở Việt Nam thì thông thường quý 1 cả hai yếu tố này đều triển khai chậm và vì vậy gánh nặng của tổng cầu thường tăng mạnh vào cuối năm.
Tính chất "giật cục" trong điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ cũng là một yếu tố tạo ra lạm phát do tâm lý. Vì vậy, cách tốt nhất là hai chính sách này phải được điều hòa đồng đều trong suốt cả năm.
Linh - Nữ 27 tuổi - Analyst:
Thực tế trong những năm qua cho thấy kinh tế của Việt Nam liên tục lặp lại chu kỳ lạm phát cao, tăng trưởng cao rồi lại tăng trưởng thấp, lạm phát thấp. Vậy với thực tế bơm tiền mạnh mẽ vào nền kinh tế như năm nay thì liệu một tình trạng tương tự có xảy ra trong năm tới hay không? Đó là chúng ta lại quay lại đối mặt với nguy cơ lạm phát trong năm 2013 hoặc chậm hơn là năm 2014.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Lạm phát thường lặp đi lặp lại theo chu kỳ ở Việt Nam là khuyết tật của việc điều hành chính sách cực đoan theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng. Đây là điều tối kỵ trong việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ hiện đại bởi vì nó sẽ tạo ra sự bất ổn nghiêm trọng của thị trường tài chính nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.
Tuy nhiên chúng tôi cho rằng từ nay trở đi vấn đề này sẽ được cải thiện hơn do Ngân hàng Nhà nước kiên định chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và Chính phủ cũng kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế hợp lý (không phải tăng trưởng bằng mọi giá như những năm trước đây).
Ngô Trúc Bình - Nam 55 tuổi - Công chức:
Đã bao lần, bao nhiêu đề nghị áp trần lãi suất cho vay cho cả cá nhân, vậy mà chưa biết bao giờ mới được, thưa các lãnh đạo và chuyên gia? Vì không có chế tài nên để giảm lãi suất cho cá nhân phải chờ đợi các ngân hàng xem xét. Nếu không hỗ trợ cá nhân vay vốn thì hàng hóa, nhà cửa… bán cho ai, doanh nghiệp sản xuất tồn kho thì tăng cao. Kiến nghị áp trần lãi suất cho vay cả cá nhân. Trân trọng.
Ông Nguyễn Đại Lai:
Chính sách lãi suất xưa nay nói chung là bình đẳng với người vay không kể đó là doanh nghiệp hay cá nhân. Vì vậy không có chuyện áp trần lãi suất cho vay khu biệt với đối tượng nào cả. Tuy nhiên trong nỗi băn khoăn của bạn về việc "nếu không hỗ trợ cá nhân vay vốn thì hàng hóa, nhà cửa… bán cho ai, doanh nghiệp sản xuất tồn kho thì tăng cao" chính là nội hàm của quy luật thị trường.
Lê Chiến Thắng - Nữ 35 tuổi - NĐT nhỏ lẻ:
Có thể nói chính sách tiền tệ đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Nhưng vừa rồi và sắp tới hàng loạt giá hàng quan trọng xăng, điện… đồng loạt tăng, liên tiếp tăng thế này thì sao? Lạm phát trở lại thì chủ trương hạ lãi suất cho vay chưa đến đích đã quay ngược. Theo các chuyên gia thì tình hình có thể như thế không? Xin cảm ơn.
Ông Nguyễn Đại Lai:
Băn khoăn của bạn có thể đúng một phần, nhưng trong nền kinh tế thị trường lạm phát chỉ có thể tăng khi tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng đồng loạt giá cả hàng hóa, dịch vụ liên tiếp trong một thời gian.
Việc có một số mặt hàng tăng giá, trong lúc một số mặt hàng khác giảm giá là chuyện bình thường của quy luật. Do đó, tình hình vẫn có thể kiểm soát được nếu chúng ta chủ động kiểm soát được tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế.
Duong Quy Binh - Nam 34 tuổi:
Trước đây tôi nghe các chuyên gia kinh tế nói tham mưu cho Chính phủ xử lý nợ xấu bằng cách thành lập công ty mua lại các khoản nợ xấu. Không biết tình hình thành lập công ty mua nợ đó như thế nào, xin cho hỏi. Cám ơn.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc xử lý nợ xấu là một nội dung quan trọng trong Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo Quyết định số 254 của Thủ tướng Chính phủ. Để triển khai nội dung này, hiện Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng phương án xử lý nợ xấu tổng thể để trình Thủ tướng Chính phủ, trong đó sẽ cân nhắc nhiều biện pháp xử lý nợ xấu. Việc có thành lập AMC thì vẫn đang trong quá trình nghiên cứu.
Linh Nguyen - Nam 35 tuổi - Giám đốc phân tích:
Xin cảm ơn chị Hồng đã tham gia giao lưu cùng độc giả. Em thấy ở Trung Quốc có áp trần lãi suất huy động và cho vay và spread của 2 lãi suất này khoảng 3%. Với các ngân hàng thương mại, chi phí hoạt động thường cộng thêm 2%, nên nếu spread 3% thì ngân hàng thương mại sẽ có lãi. Hiện tại spread 15%-9%= 6% là cao (đây là tính sơ, còn nếu tính chi tiết thì phải tính thêm tỷ trọng của các khoản huy động, trong đó có huy động không kỳ hạn có lãi suất rất thấp). Một ngân hàng thương mại lớn em biết trong quý 2 có tỷ lệ lãi biên (Net interest margin) tăng so với quý 1 và cả 2 quý đều trên 4%. Như vậy ngân hàng thương mại đang hưởng lợi từ chính sách áp trần lãi suất huy động trong khi không có trần cho vay. Đã có nhiều ý kiến đề nghị áp trần lãi suất cho vay, vậy vì sao Ngân hàng Nhà nước chưa cho áp dụng biện pháp này mà mới chỉ dừng lại ở việc kêu gọi. Em mong chị Hồng giải đáp thắc mắc của em. Cảm ơn chị nhiều và chúc chị luôn thành công trong sự nghiệp và sức khỏe trong cuộc sống.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Hiện nay, đối với các khoản cho vay cũ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị các tổ chức tín dụng giảm xuống mức tối đa là 15%/năm. Còn đối với các khoản cho vay mới, đối với 4 lĩnh vực ưu tiên thì áp dụng trần lãi suất cho vay là 13%/năm (có nhiều ngân hàng đưa ra lãi suất thấp hơn); các lĩnh khác ở mức trên 13%/năm nhưng phổ biến khoảng 15%/năm. Trần lãi suất huy động có nhiều mức tùy theo kỳ hạn, không kỳ hạn và dưới một tháng là 2%/năm, từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9%/năm, trên 12 tháng thì theo lãi suất thỏa thuận (phổ biến là 12%/năm).
Khi tính chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra phải tính theo tỷ trọng huy động và cho vay với lãi suất tương ứng, ngoài ra còn cộng các chi phí dữ trữ bắt buộc, dự phòng thanh toán, xử lý rủi ro… Mỗi một ngân hàng thì có các tỷ lệ lãi biên khác nhau tùy theo chiến lược hoạt động và mục tiêu lợi nhuận của từng ngân hàng.
Nguyen Nguyen An - Nam 35 tuổi - Nđt:
Xin chào bà Hồng. Bà có thể cho biết sau khi lãi suất huy động liên tiếp giảm vừa qua thì người dân có gửi tiền vào ngân hàng nhiều nữa không? Nếu không thì các ngân hàng sẽ phải tăng lãi suất, lách trần rồi thị trường lại căng thẳng thì làm sao giảm được lãi suất cho vay? Cảm ơn bà.
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã 4 điều chỉnh giảm lãi suất trần huy động với tổng mức giảm từ 4 – 5%/năm, đây là mức giảm khá lớn nhưng phù hợp với xu hướng và diễn biến của lạm phát. Mức trần lãi suất huy động hiện nay vẫn đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền nên người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Số liệu cho thấy, trong 7 tháng đầu năm 2012 huy động vốn vẫn tăng khoảng 10%, riêng VND tăng khoảng 12% so với cuối năm 2011.
Vũ Bá Hùng - Nam 29 tuổi - Kinh doanh:
Tôi có mở doanh nghiệp mới hoạt động khoảng 5 tháng chuyên về sản xuất phân bón lá và đang hoạt động tương đối tốt. Do thiếu vốn để xây dụng nhà xưởng mua thêm máy móc thiết bị, và vốn lưu động nên muốn vay ngân hàng nhưng mà theo quy tắc ngân hàng thì tôi phải có thế chấp thì mới được vay, nhưng tôi không có nhà để thế chấp, và vốn muôn vay khoảng 300 triệu. Vậy làm sao tôi có thể vay được ngân hàng? Xin được tư vấn. Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Khi ngân hàng xem xét cho vay tín chấp một doanh nghiệp thường căn cứ vào các chỉ số tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh từ 1- 3 năm trước khi vay vốn ngân hàng và có phương án kinh doanh khả thi.
Trường hợp của bạn là doanh nghiệp mới hoạt động được 5 tháng nên rất khó để ngân hàng có thể đánh giá chính xác tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của bạn. Trong trường hợp này, nếu sau khi xem xét phương án kinh doanh của bạn khả thi sẽ đề nghị bổ sung thêm tài sản thế chấp vì bạn chưa đủ điều kiện để vay tín chấp.
Tuy nhiên bạn có thể đến chi nhánh VietinBank đóng trên địa bàn công ty của bạn hoạt động để chúng tôi có thể tư vấn và xem xét cụ thể.
Thanh Hoài - Nam 46 tuổi - BTV:
Thưa ông/bà, vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay của doanh nghiệp và xã hội là cần phải giảm lãi suất xuống sâu hơn mức hiện tại 15%/năm, thậm chí ở mức 8 - 10%/năm đối với lãi vay ngắn hạn. Theo các ông/bà, trong thời gian tới lãi suất tiền vay ở mức nào là phù hợp?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Từ đầu năm tới nay, căn cứ vào tín hiệu từ nền kinh tế và tình hình lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo 5 lần hạ lãi suất.
Với thống kê lạm phát cuối tháng 7 tiếp tục giảm 0,29% cho thấy tình hình lạm phát đã được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước kiểm soát rất tốt.
Đây chính là điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay phù hợp với điều kiện sức khỏe của từng ngân hàng, thậm chí lãi suất cho vay ở mức thấp hơn 15%. Tuy nhiên chúng ta cũng phải tính tới việc giảm lãi suất đầu ra sẽ ảnh hưởng tới lãi suất huy động. Phải làm thế nào để mức lãi suất huy động thực dương để đảm bảo hấp dẫn và thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.
Tại Vietinbank, hầu hết các chương trình cho vay ngắn hạn đều chỉ ở mức 9% - 12%/năm.
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý, việc giảm nhanh và liên tục lãi suất cho vay cũng tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế. Thời gian vừa qua, việc Ngân hàng nhà nước chỉ đạo hạ lãi suất nhiều lần đã thể hiện sự nỗ lực cố gắng nhất có thể của ngành Ngân hàng trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhơn Hậu - Nam 34 tuổi - Bạn đọc:
Nhìn lại, việc hoạch định chính sách của chúng ta bao lâu nay vẫn hạn chế ở tầm dự báo. Theo các diễn giả đâu là chủ quan, đâu là khách quan ở hạn chế này?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chúng ta đang sống trong giai đoạn thị trường tài chính biến động dữ dội vì vậy dự báo rất phức tạp, bạn thấy các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB... liên tục phải sửa đổi dự báo của mình khoảng 3 tháng một lần, và chất lượng dự báo của họ về kinh tế của Việt Nam thậm chí còn kém xa dự báo của các cơ quan nội địa và đi sau các cơ quan nội địa.
Vì vậy, nguyên nhân chính là cập nhật các thông tin trong điều kiện bất ổn tài chính thường rất khó khăn. Ngoài ra, các vấn đề về chính trị cũng làm thay đổi cục diện kinh tế và tài chính, ví dụ cứu đồng Euro hay không cứu, nới lỏng định lượng hay không nới lỏng định lượng, tài trợ trực tiếp cho ngân hàng hay thông qua chính phủ, Ngân hàng Trung ương mua trái phiếu hay không mua trái phiếu... đều là những quyết định chính trị có liên quan đến việc làm, bầu cử, xung đột đảng phái...
Vì vậy cho nên ít nhất từ nay đến 2015 các dự báo sẽ còn nhiều thay đổi và đấy là chuyện bình thường.
Ngô Trúc Bình - Nam 55 tuổi - Công chức:
Đã bao lần, bao nhiều đề nghị áp trần lãi suất cho vay cho cả cá nhân, vậy mà chưa biết bao giờ mới được, thưa các lãnh đạo và chuyên gia? Vì không có chế tài nên để giảm lãi suất cho cá nhân phải chờ đợi các ngân hàng xem xét. Nếu không hỗ trợ cá nhân vay vốn thì hàng hóa, nhà cửa… bán cho ai, doanh nghiệp sản xuất tồn kho thì tăng cao. Kiến nghị áp trần lãi suất cho vay cả cá nhân. Trân trọng.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi ủng hộ ý kiến của ông. Cho vay tiêu dùng có vai trò rất quan trọng để phục hồi tổng cầu của nền kinh tế, góp phần khôi phục sản xuất kinh doanh và giải quyết hàng tồn kho. Tuy nhiên, hệ thống hoạch định chính sách của Việt Nam hiện nay lại coi trọng cung hàng hóa hơn cầu hàng hóa (trọng cung). Vì vậy, rất xem nhẹ việc phát triển tiêu dùng.
Tuy nhiên, trần lãi suất bất luận là cho loại dịch vụ ngân hàng nào về cơ bản không phù hợp với kinh tế thị trường, làm cho lãi suất trở nên méo mó và phân bổ nguồn lực sai hướng, không hiệu quả. Theo tôi, tốt nhất là bỏ các loại trần lãi suất hiện nay như chúng ta đã từng làm trong những năm đầu của thế kỷ này.
Nguyen Huu Chuyen - Nam 55 tuổi - Doanh nhân:
Hai năm nay Chính phủ tập trung ổn định vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh, các thị trường, các vấn đề lãi suất, nợ xấu… vẫn lao đao, suy giảm, căng thẳng… Các chuyên gia dự báo đến bao giờ mới thực sử ổn định được vĩ mô, an sinh xã hội?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Nghị quyết 11 của Chính phủ đã khẳng định mục tiêu ưu tiên trong những năm tới là ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo an sinh xã hội.
Cho đến nay, Chính phủ đã đạt được phần lớn các mục tiêu quan trọng như: kiểm soát lạm phát, củng cố thanh khoản của ngân hàng, ổn định tỷ giá hối đoái, tăng dự trữ ngoại tệ...,
Tuy nhiên, do nới lỏng tín dụng trước đây, nền kinh tế đang bị nợ xấu làm cho suy kiệt thanh khoản. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng và là căn bệnh rất khó chữa, có thể làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại trong nhiều năm do lòng tin trong hệ thống tài chính suy giảm mạnh.
Tuy nhiên cũng có thể thấy kinh tế vĩ mô sẽ được ổn định và phải trả giá cho một giai đoạn tăng trưởng thấp mà nguyên nhân trực tiếp là nợ xấu và nguyên nhân sâu xa là mô hình tăng trưởng lỗi thời, kém hiệu quả. Nền kinh tế cần phải được tái cơ cấu một cách toàn diện mà đây là cơ hội làm bộc lộ những khuyết tật của mô hình kinh tế Việt Nam hiện nay.
Phạm Anh Tôn - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cháu chào bác Lê Xuân Nghĩa. Hiện nay hệ thống ngân hàng về cơ bản đã có tiến triển tốt về mặt thanh khoản, nhưng dòng vốn vẫn không thể lưu thông ra nền kinh tế do nợ xấu (vào khoảng 202.000 tỷ), nếu bơm tiền cho các ngân hàng thương mại để xử lý nợ xấu có tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về làm phát trong tương lai hay không? Và dòng tiền sẽ được kiểm soát như thế nào trong việc xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại? Nếu Việt Nam chọn cách thành lập AMC thì sẽ dùng vốn ở đâu? Và đây có phải là cách khả thi nhất hay không không? Cháu xin cám ơn bác!
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi cho rằng thành lập AMC để xử lý nợ xấu là cách tốt nhất để giải quyết nhanh vấn đề đóng băng tín dụng hiện nay. Thực ra vốn để cho AMC hoạt động không phải quá lớn bởi vì AMC không mua lại 100% giá trị sổ sách của các khoản nợ mà bình quân khoảng 35-40% giá trị (Hàn Quốc 36%).
Như vậy, bạn có thể tính nếu nợ xấu 200 ngàn tỷ thì vốn cho AMC hoạt động chỉ cần dưới 100 ngàn tỷ đồng trong đó 10-20% là vốn tự có của Chính phủ, phần còn lại có thể huy động bằng phát hành trái phiếu trong vòng 1-2 năm. Điều này không quá khó khăn.
Le Van Lam - Nam 50 tuổi - Cán bộ:
Xin chào bà Nguyễn Thị Hồng. Quy định sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt là chủ trương đúng đắn, nhằm giảm chi phí lưu thông tiền tệ liên quan đến công tác quản lý ngân quỹ .Chủ trương này cần phải được tuyên truyền phổ biến sâu rộng và lâu dài do thói quen sử dụng tiền mặt của người dân. Tuy nhiên, trong giai đoạn khó khăn hiện nay, tín dụng tăng trưởng âm, sản xuất đinh đốn, nợ quá hạn tăng, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn do tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu.... điều mà ai cũng thấy. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước ra Thông tư 09/NHNN ngày 10/4/2012 vô hình chung siết chặt thêm quy định cho vay đối với tổ chức và cá nhân khi muốn vay vốn ngân hàng. Do thủ tục giải ngân rườm rà, và ít tác dụng, ngân hàng tìm cách lách luật bằng việc giải ngân, ví dụ vay 1,8 tỷ đồng thì giải ngân thành 20 lần rút vốn... Bà đánh giá thế nào vế vấn đề này? Có thể sửa đổi thông tư cho phù hợp với thực tế không?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 09 quy định để sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt nhằm đảm bảo việc quản lý vốn vay sử dụng đúng mục đích, phòng ngừa rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng trong việc giải ngân vốn cho vay bằng tiền mặt để sử dụng sai mục đích, không quy định thêm các thủ tục giải ngân đối với các tổ chức tín dụng.
Đăng Tuấn - Nam 41 tuổi - Doanh nghiệp:
Thật là… vô lý. Doanh nghiệp tốt, khỏe thì cần gì hỗ trợ! Ngân hàng và chính sách còn phải dựa vào họ chứ. Doanh nghiệp yếu, khó khăn có nguy cơ đổ vỡ thì mới cần hỗ trợ. Oái ăm là ngân hàng lại không thể cho vay vì nguy cơ đó. Vậy không lẽ chúng ta đứng nhìn lượng doanh nghiệp phá sản gia tăng đều đều như vậy sao? Mỗi ngân hàng chỉ cần chia sẻ 10 – 20% lợi nhuận năm nay thì sẽ cứu được hàng nghìn doanh nghiệp!
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, tổng cầu giảm mạnh, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, doanh nghiệp không có khả năng hấp thụ vốn, thị trường bất động sản đóng băng khiến cho doanh nghiệp ngày càng đình đốn và nợ xấu cũng theo đó ngày càng tăng lên, đẩy hệ thống ngân hàng vào tình trạng rủi ro thanh khoản rất lớn. Khó có thể trông cậy vào việc ngân hàng sẽ cứu doanh nghiệp bằng cách hy sinh một phần lợi nhuận của họ bởi vì ngân hàng phải chịu trách nhiệm về tiền gửi của dân chúng mà họ phải hoàn lại 100% cả vốn lẫn lãi trong bất kỳ trường hợp nào.
Khả năng cứu trợ doanh nghiệp hiện nay chỉ có thể trông cậy vào chính phủ và tự các doanh nghiệp trong đó quan trọng nhất là chính phủ phải mua lại toàn bộ nợ xấu của doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho ngân hàng đẩy tín dụng mới ra thị trường. Việc chính phủ mua lại nợ xấu tất nhiên có giới hạn, tùy thuộc vào mức độ rủi ro của từng khoản nợ.
Ví dụ nợ xấu 10 tỷ, Chính phủ có thể mua lại 2-3 tỷ nhưng điều này có hai cái lợi. Một là số tiền Chính phủ mua nợ là tiền thật trong khi 10 tỷ nợ xấu là tiền chỉ có trong sổ sách. Thứ hai là mặc dầu ngân hàng bị tổn thất 7-8 tỷ nhưng bù lại bảng cân đối tài sản sẽ trở nên sạch sẽ, họ buộc phải chấp nhận giảm lợi nhuận, giảm tài sản thậm chí giảm vốn tự có nhưng điều quan trọng là họ sẽ cho các doanh nghiệp vay mới để tiếp tục kinh doanh.
Và đây là cách duy nhất để cứu doanh nghiệp một cách có hiệu quả hiện nay.
Phan Vu Nhat Minh - Nữ 29 tuổi - Nghiên cứu sinh:
Tái cấu trúc là một câu chuyện rất nóng trong thời gian gần đây, từ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đến tái cấu trúc nền kinh tế. Vậy tôi muốn hỏi, thực tế thành tựu, kết quả mà chúng ta đã đạt được là gì? Chúng ta tiến hành trong giai đoạn kinh tế trong nước chịu nhiều tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới liệu có phải là một thời điểm hợp lý hay không vì doanh nghiệp, ngân hàng thương mại cùng một lúc phải gánh rất nhiều khó khăn? Chúng ta cân nhắc được - mất trong thời gian qua như thế nào? Và mục tiêu của quá trình tái cấu trúc đến hết năm nay, sau đó là năm 2013 cụ thể ra sao?
Ông Nguyễn Đại Lai:
Vấn đề tái cấu trúc…như bạn nói: nóng thì đúng, nhưng mới thì không phải vì chúng ta tiến hàng công cuộc đổi mới hơn 20 năm nay cũng là hơn 20 năm từng bước hoàn thiện dần cơ chế thị trường mà đến nay vẫn còn nhiều khuyết tật.
Trong bối cảnh mà bạn nói: “Chúng ta tiến hành trong giai đoạn kinh tế trong nước chịu nhiều tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới” thì việc phải đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế là rất cần thiết, nếu không muốn nói là cơ hội để chúng ta đẩy nhanh việc này.
Mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế nước ta là: hướng đến một mô hình kinh tế thị trường hoàn hảo. Theo đó, các quy luật của thị trường được tôn trọng, các kết cấu lớn của nền kinh tế phải được hợp lý trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Phải có chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ đặc thù mang thương hiệu/ giấy thông hành Việt Nam. Tránh một nền kinh tế tiêu thụ, gia công lắp ráp và khai thác, bán thô hầu hết các tài nguyên thiên nhiên cũng như sức lao động cho nước ngòai và cho các đối tác nước ngoài vào Việt Nam.
Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang bộc lộ rất rõ là một nền kinh tế như vậy.
Nguyễn Hưng - Nam 41 tuổi - Nghiên cứu và phân tích:
Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều hành quyết liệt như trong vòng 5 tháng, giảm 5 lần các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng 7 tháng vẫn rất thấp. Một bên thì doanh nghiệp gặp khó khăn, hàng tồn kho lớn, sức mua giảm, không thu hồi được vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp không muốn vay; một bên là ngân hàng muốn cho vay nhưng vẫn phải đáp ứng điều kiện đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Vậy đâu là “nút thắt” và xử lý thế nào để đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 10%?
Ông Nguyễn Văn Thắng:
Chào bạn. Tôi đồng ý với nhận định về việc doanh nghiệp khó tiếp cận vốn trong khi nguồn vốn của ngân hàng lại dư thừa.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhiều doanh nghiệp muốn vay vốn nhưng không đủ điều kiện do tình hình tài chính quá yếu, hoạt động kinh doanh giảm sút nghiêm trọng. Ngược lại một số doanh nghiệp đủ điều kiện thì lại hạn chế vay hoặc không vay vì lãi suất cao, hàng hóa đầu ra khó tiêu thụ.
Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng để tháo “nút thắt” các ngân hàng cần phải xem xét phân loại khách hàng theo nhiều nhóm đối tượng, qua đó xây dựng các chính sách và các gói sản phẩm tín dụng cho phù hợp với từng đối tượng.
Ví dụ: đối với những khách hàng đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng nhưng tạm thời gặp khó khăn trong kinh doanh thì ngân hàng cần phải phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp để tiếp tục xem xét tài trợ vốn cho các phương án kinh doanh khả thi, để giúp doanh nghiệp tạo được dòng tiền mới, trả nợ cũ, đồng thời ngân hàng cũng phải đưa ra các cơ chế hỗ trợ như miễn giảm lãi, phí, cơ cấu lại các khoản nợ,..
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Bạn đã nói rất đúng về nguyên nhân tại sao tín dụng 7 tháng đầu năm 2012 tăng ở mức thấp. Để mở rộng tín dụng trong những tháng cuối năm thì vấn đề quan trọng phải giải phóng được hàng tồn kho, khi đó các doanh nghiệp mới có nhu cầu vay vốn để sản xuất tiếp; đẩy mạnh giải ngân vốn ngân sách, vốn đầu tư; hỗ trợ cho các doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn thông qua bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp…
Linh - Nữ 27 tuổi - Analyst:
Năm nay, câu chuyện về tái cấu trúc rất nóng hổi, từ nền kinh tế đến hệ thống ngân hàng. Vậy tôi có một câu hỏi là: Tính đến thời điểm hiện tại, quá trình tái cấu trúc này đã đạt được thành tựu gì? Được và mất ra sao? Và mục tiêu trong ngắn hạn (năm 2012 và 2013) là như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Chủ trương tái cấu trúc từ nền kinh tế đến hệ thống ngân hàng là chủ trương hết sức đúng đắn của Chính phủ để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Riêng với lĩnh vực ngân hàng thì Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành được một số nội dung theo lộ trình của Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 254, như đã nhận diện được các tổ chức tín dụng yếu kém và tiến hành các bước để cơ cấu lại các tổ chức tín dụng này.
Về lộ trình năm 2012 và 2013 thì đã được thể hiện rất rõ tại Quyết định số 254 của Thủ tướng Chính phủ. Theo tôi, cái được lớn nhất của việc tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng là sẽ phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả, có tính cạnh tranh cao, phát huy tốt vai trò trung gian tài chính để là kênh dẫn vốn hiệu quả trong nền kinh tế.
Phạm Anh Tôn - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cháu chào bác Lê Xuân Nghĩa. Hiện nay cháu có đọc một số báo cáo của các tổ chức nước ngoài thì họ dự đoán Việt Nam sẽ hạ lãi suất trong quý tới khoảng 100 - 200bps là tiền đề cho việc tiếp cận vốn giá rẻ, các khoản vay ưu đãi. Vậy việc hạ lãi suất có thể có trường hợp Việt Nam rơi vào bẫy thanh khoản hay không? Lãi suất ở Việt Nam cao như hiện nay có phải là bất hợp lý cho một nền kinh tế đang khó khăn như hiện nay, làm cho các quỹ đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đang rút chạy khỏi Việt Nam? Cháu xin cám ơn!
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Dư địa để ngân hàng hạ lãi suất hiện nay chỉ còn khoảng 2% (nếu giá lương thực thực phẩm không tăng đột biến trở lại). Nếu lãi suất giảm mạnh hơn, thì Việt Nam sẽ rơi vào bẫy thanh khoản và tài sản sẽ bị đảo chiều theo hướng bỏ nội tệ mua ngoại tệ làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên gây bất lợi rất lớn cho sự phục hồi của thị trường tài sản và đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ rất thận trọng trong việc hạ lãi suất từ nay đến cuối năm. Tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm lãi suất 0,25%/tháng và đến cuối năm sẽ giảm khoảng 1%. Và nếu như vậy, tình hình kinh tế vĩ mô sẽ ổn định hơn.
Lê Chiến Thắng - Nữ 35 tuổi - NĐT nhỏ lẻ:
Có thể nói chính sách tiền tệ đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Nhưng vừa rồi và sắp tới hàng loạt giá hàng quan trọng xăng, điện… đồng loạt tăng, liên tiếp tăng thế này thì sao? Lạm phát trở lại thì chủ trương hạ lãi suất cho vay chưa đến đích đã quay ngược. Theo các chuyên gia thì tình hình có thể như thế không? Xin cảm ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Điều quan trọng nhất mà Ngân hàng Nhà nước đang cân nhắc hiện nay là hạ lãi suất đến mức nào trong điều kiện giá nhiên liệu, điện và lương thực thực phẩm có thể tăng. Theo tính toán của chúng tôi, lạm phát cơ bản của Việt Nam (CPI loại bỏ lương thực thực phẩm và xăng dầu) vẫn luôn luôn tăng từ 0,2 đến 0,8%/tháng. Điều này cho thấy hai mặt hàng trên biến động tăng, rất có thể lạm phát sẽ quay trở lại.
Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước chỉ có thể giảm lãi suất từ nay đến cuối năm thêm 1% và có thể chia làm nhiều kỳ để điều chỉnh với mỗi kỳ khoảng 0,25%.
Ngọc Thu - Nữ 33 tuổi - Kế toán:
Theo tôi, nếu không cứu những doanh nghiệp yếu thì sẽ tạo rất nhiều hệ lụy: đời sống xã hội của nhiều người lao động rồi gia đình của họ, ảnh hưởng các mối quan hệ phân phối, sản xuất trong nền kinh tế vì mỗi doanh nghiệp là một mắt xích nào đó và cả hệ lụy nợ xấu ngân hàng… Không nên sằng phẳng đến mức gạt đi việc hỗ trợ lãi suất, nguồn vốn như một số quan điểm nêu ra. Còn quan điểm của quý vị thì sao?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Đóng băng tín dụng làm cho doanh nghiệp suy kiệt nguồn vốn và tiến tới phá sản không phải là do ngân hàng mà đó là một tình huống kinh tế khi mà tổng cầu suy giảm mạnh, nợ xấu tăng cao, lòng tin của các nhà đầu tư lung lay. Căn bệnh này đã xuất hiện ở nhiều nước và đã bóp nghẹt nhiều nền kinh tế và nó cũng đang hiện hữu ở Việt Nam trong một bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm. Vì vậy, để hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay, không chỉ là giảm lãi suất hoặc hô hào cho doanh nghiệp tiếp cận vốn chung chung mà phải có những hành động kinh tế để lấy lại lòng tin giữa doanh nghiệp và ngân hàng và giữa các nhà đầu tư vào triển vọng kinh tế.
Để làm được việc này cần phải có bàn tay của Chính phủ mà trước hết và chủ yếu là xử lý nhanh chóng và toàn diện nợ xấu trên cơ sở đó phục hồi tín dụng, phục hồi thị trường tài sản.
Chính phủ đã có nhiều nỗ lực theo hướng này nhưng xem ra kết quả chưa rõ ràng vì nợ xấu vẫn là vấn đề lớn nhất.
Đào Xuân Thanh - Nam 52 tuổi - Doanh nghiệp:
Xin những đánh giá khách quan từ các lãnh đạo, chuyên gia và hơn hết là những người đang sống và làm việc với chính sách, rằng đâu là những điểm được và chưa được của chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ thời gian qua và hiện nay, cũng như với chính sách tiền tệ? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ trong thời gian qua có mấy cái được: kiểm soát được lạm phát, củng cố được thanh khoản của ngân hàng, ổn định được tỷ giá hối đoái, tăng được khối lượng dự trữ ngoại tệ lên gấp đôi nhưng do những nguyên nhân tích tụ từ nhiều năm trước, nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy giảm tăng trưởng rất khó cứu chữa. Lý do là nợ xấu rất lớn và tăng rất nhanh khiến tín dụng đóng băng, doanh nghiệp suy kiệt vốn và đình đốn ngày càng nghiêm trọng.
Nếu chính phủ không nhanh tay xử lý vấn đề này, Việt Nam sẽ rơi vào một thời kỳ tăng trưởng thấp kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến thành quả đã đạt được về kiểm soát lạm phát và cũng tác động rất xấu đến an sinh xã hội.
Hà Văn Duy - Nam 32 tuổi - Kinh doanh:
Thưa ông/bà hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách cho vay vốn với lãi suất thấp 11% năm. Nhưng thực tế để các doanh nghiệp, cá nhân tiếp cận được là rất ít. Vậy Ngân hàng Nhà nước có nên thực hiện những chính sách mới để các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận được không?
Bà Nguyễn Thị Hồng:
Ngân hàng Nhà nước là cho vay các tổ chức tín dụng thông qua nhiều kênh (lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là 11%/năm; lãi suất tái cấp vốn là 10%/năm; lãi suất nghiệp vụ thị trường mở là 8%/năm), Ngân hàng Nhà nước không cho vay trực tiếp đối với doanh nghiệp và cá nhân.