"Phát triển vật liệu không nung chưa đạt mục tiêu đề ra"
Phó thủ tướng chỉ ra hàng loạt tồn tại, bất cập của ngành vật liệu xây dựng và yêu cầu Bộ chủ quản không được chủ quan
"Cho dù ngành vật liệu xây dựng đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những ngành công nghiệp phát triển, tạo ra nhiều chủng loại vật liệu có chất lượng, khối lượng lớn, bảo đảm cơ bản mọi nhu cầu xây dựng trong nước, nhưng cần phải thẳng thắn nhìn nhận việc thực hiện Chương trình vật liệu xây không nung chưa đạt được mục tiêu đề ra".
Đó là phát biểu của Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại Hội nghị Vật liệu xây dựng toàn quốc ngày 12/12, do Bộ Xây dựng chủ trì tổ chức.
Theo Phó thủ tướng, nguyên nhân có thể do cơ quan quản lý Nhà nước chưa kiểm soát được, hoặc do đưa ra chỉ tiêu quá cao. Do đó, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Xây dựng cần phải có những đánh giá toàn diện, không chủ quan thực tế này.
Cùng với đó, Phó thủ tướng cũng chỉ ra hàng loạt tồn tại, bất cập của ngành, trong đó nổi lên là công tác quản lý nhà nước ngành vật liệu xây dựng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần tập trung khắc phục hiệu quả trong thời gian tới.
Công tác thăm dò dự báo tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng còn hạn chế. Công tác quản lý trong việc cấp phép, khai thác tài nguyên khoáng sản của các cấp, các ngành, đặc biệt là ở các địa phương còn bất cập dẫn đến khai thác không phép, trái phép còn diễn ra nhiều trong thời gian qua.
Về quy hoạch, chưa xây dựng được quy hoạch tổng thể về khoáng sản làm vật liệu xây dựng để quản lý, kiểm soát một cách hệ thống. Chất lượng quy hoạch tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng còn thấp, phải điều chỉnh liên tục, do đó ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
"Việc đầu tư sản xuất một số sản phẩm vật liệu chưa theo quy hoạch, một số thời điểm để cung vượt quá cầu, dẫn đến lãng phí đầu tư; chưa sản xuất được nhiều loại vật liệu mới; chưa quản lý chặt chẽ về môi trường trong sản xuất, một số dự án gây ô nhiễm môi trường", Phó thủ tướng chỉ rõ.
Báo cáo trước đó của Bộ Xây dựng cho biết, từ năm 2010 Việt Nam đã sản xuất đủ xi măng cho nhu cầu nội địa bằng nguồn clinker sản xuất trong nước. Những năm tiếp theo, để phát huy hiệu quả đầu tư, đồng thời giảm áp lực tiêu thụ trong nước, Việt Nam đã xuất khẩu clinker và xi măng ra nước ngoài tạo nguồn thu ngoại tệ để đầu tư mua sắm vật tư, thiết bị.
Hiện nay, theo số liệu thống kê thì Việt Nam đứng thứ 4 trong 10 nước sản xuất xi măng và clinker nhiều nhất thế giới. Các sản phẩm xi măng của Việt Nam tương đối đa dạng. Các doanh nghiệp sản xuất xi măng ở nước ta đã sản xuất được hầu hết các chủng loại xi măng poóc lăng phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong nước.
Về sản lượng, đến năm 2016, cả nước có 80 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất thiết kế là 88,46 triệu tấn xi măng/năm, sản lượng sản xuất đạt trên 75,2 triệu tấn (tăng 49,8% so với năm 2010). Dự kiến đến hết năm 2017 cả nước sẽ có 83 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất thiết kế 98,56 triệu tấn/năm.
Sản lượng sản xuất gạch ốp lát các loại (gạch ceramic, granite, cotto) không ngừng tăng nhanh. Năm 2010 sản lượng sản xuất là 378 triệu m2, thì đến năm 2016, sản lượng sản xuất đã tăng lên 540 triệu m2 (tăng 50% so với năm 2010), đáp ứng cung cấp đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu khoảng 20-25% tổng công suất.
Công nghệ và thiết bị, được đầu tư đồng bộ, tiên tiến từ các nước phát triển với quy mô mỗi nhà máy lên tới hàng chục triệu m2, module công suất mỗi dây chuyền từ 2 đến 3 triệu m2/năm.
Đối với đá ốp lát tự nhiên đã áp dụng công nghệ khai thác hiện đại bằng cưa đĩa, cắt dây kim cương, hạn chế tối đa việc nổ mìn ảnh hưởng tới môi trường và an toàn lao động. Trên cả nước đã có khoảng 130 cơ sở cưa xẻ đá ốp lát và 25 cơ sở chế biến bột đá carbonat canxi siêu mịn được đầu tư với năng lực chế biến khoảng 16 triệu m2/năm. Công suất hoạt động thực tế đạt khoảng 60-70% công suất thiết kế.
Đến hết năm 2016, tổng công suất thiết kế các nhà máy sản xuất sứ vệ sinh đạt 14,7 triệu sản phẩm/năm (tăng 40% so với năm 2010), đáp ứng cung cấp đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến, mức độ tự động hóa cao, tiêu hao ít nhiên liệu, chủng loại sản phẩm đạt chất lượng cao, đa dạng về hình dáng, kích thước, mẫu mã, màu sắc và đặc tính sử dụng; nhiều loại sản phẩm đạt trình độ công nghệ của các nước tiến tiến hàng đầu trong lĩnh vực này. Năng lực sản xuất trong nước hiện có đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ở trong nước và xuất khẩu đạt khoảng 30-35% công suất thiết kế.
Về kính xây dựng, tổng công suất sản xuất kính phẳng hàng năm của các nhà máy đang sản xuất trong nước ước đạt 4.080 tấn/ngày tương đương 285 triệu m2 quy tiêu chuẩn (QTC)/năm, trong đó kính nổi là 3.550 tấn/ngày tương đương 248 triệu m2 QTC (có 7 nhà máy) và kính cán là 530 tấn/ngày tương đương 37 triệu m2 QTC.
Ngoài các nhà máy đang sản xuất, hiện tại có 5 dự án kính nổi đang đầu tư với tổng công suất 2.600 tấn/ngày tương đương 182 triệu m2 QTC/năm. Như vậy, khi 5 dự án trên đi vào sản xuất, tổng công suất sản xuất kính phẳng ở Việt Nam sẽ là 6.680 tấn/ngày tương đương 466 triệu m2 QTC/năm.