Quản trị tốt, giá cổ phiếu sẽ lên
Các chuyên gia cho rằng quản trị càng tốt sẽ càng làm cho công ty cổ phần đại chúng trở nên có giá và ngược lại
Tại cuộc hội thảo mới đây do tập đoàn Masso Consulting tổ chức, các chuyên gia cho rằng quản trị càng tốt sẽ càng làm cho công ty cổ phần đại chúng trở nên có giá và ngược lại.
Quản trị để “lấy lòng” cổ đông!
Dĩ nhiên, doanh nghiệp dưới bất kỳ hình thức nào đi chăng nữa thì cũng cần được quản trị tốt (corporate governance *). Thế nhưng, với công ty cổ phần đại chúng điều này lại càng trở nên đặc biệt quan trọng hơn bao giờ hết.
Dẫn nguồn từ một khảo sát của tập đoàn Tư vấn McKinsey (Mỹ), TS. Sundar Venkatesh, giảng viên Học viện Công nghệ Á châu (AIT, Thái Lan), cho biết có tới ba phần tư số nhà đầu tư được hỏi trả lời rằng chất lượng của hội đồng quản trị quan trọng không kém kết quả tài chính. Hơn 80% ý kiến cho rằng các nhà đầu tư sẽ trả giá cao hơn cho những công ty cổ phần đại chúng thực hiện tốt quản trị so sới những công ty khác.
Đặc biệt, theo ông Nguyễn Trung Thẳng, Tổng giám đốc Masso Consulting, khảo sát trên cũng cho thấy quản trị ở các công ty đại chúng thuộc khu vực châu Á, nơi quản trị theo kiểu gia đình còn phổ biến, được các nhà đầu tư quan tâm hơn rất nhiều so với ở Mỹ là nơi mà các tiêu chuẩn quản trị đã phát triển cao. Ở khu vực này, nhà đầu tư cũng sẵn sàng trả giá cao hơn từ 19% trở lên, thậm chí ở Trung Quốc tới 25% cho những công ty đại chúng có quản trị tốt.
Điểm mấu chốt của vấn đề nằm ở hàng vạn, hàng triệu cổ đông và nhà đầu tư ở bên ngoài công ty. “Khi quản trị công ty tốt, giá trị của công ty sẽ tăng. Nếu quản trị công ty không đem lại nhiều bảo đảm cho nhà đầu tư, họ sẽ trả giá thấp cho cổ phần của công ty”, TS. Phạm Trí Hùng, Công ty Indochine Counsel giải thích.
Các cổ đông đưa lại sức mạnh về tài chính cho công ty trên thị trường vốn nhưng muốn lôi kéo được sức mạnh ấy công ty phải tạo được lòng tin ở họ. Quản trị tốt chính là phương thuốc hữu hiệu để tạo niềm tin cho các cổ đông.
“Cổ đông bên ngoài luôn có sự xung đột với cổ đông bên trong và nghĩ rằng những người này chỉ hành động vì lợi ích của bản thân mình. Ví dụ, chỉ cần công ty ký kết hợp đồng mua hàng hóa của một công ty thuộc sở hữu của một thành viên hội đồng quản trị là lập tức có người nghi ngờ ngay về giao dịch có vẻ mờ ám ấy và hội đồng quản trị ở đây rõ ràng “có vấn đề”, TS. Sundar Venkatesh phát biểu.
Để xua tan mối nghi ngờ đó, hội đồng quản trị phải tránh xa những giao dịch như vậy và điều lớn hơn là phải xây dựng được một hệ thống quản trị tốt, qua đó chứng minh cho các cổ đông biết họ không chỉ là một hội đồng quản trị sạch mà còn được kiểm soát một cách bài bản, kỹ càng.
Thế nhưng, đấy cũng chưa phải là tất cả. Quản trị không đơn giản chỉ nhằm mục đích “lấy lòng” cổ đông và nhà đầu tư mà trên hết phục vụ cho sự trường tồn và phát triển của doanh nghiệp.
“Nếu các nhà đầu tư thất bại trong việc tích cực giám sát và khép hội đồng quản trị vào kỷ luật hoặc nếu hội đồng quản trị thiếu giám sát, hướng dẫn ban giám đốc, tức là quản trị thất bại và điều đó có thể dẫn công ty đến những thảm họa kiểu tập đoàn Enron”, TS. Sundar Venkatesh đưa ra cảnh báo.
Vấn đề của chúng ta?
Mặc dù quản trị đóng một vai trò to lớn như vậy trong công ty đại chúng nhưng vấn đề này lại đang bị xem nhẹ ở Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Phạm Trí Hùng, những biểu hiện về vi phạm quản trị đang trở nên rất phổ biến, từ chuyện hội đồng quản trị phớt lờ ý kiến cổ đông; đại hội đồng cổ đông được tổ chức qua loa, hình thức, đến chuyện chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc lấy tiền của công ty chi dùng cá nhân hoặc đầu tư vào những dự án có lợi cho gia đình mình...
Ông Hùng cho rằng mâu thuẫn cơ bản trong quản trị công ty đại chúng ở nước ta hiện nay là mâu thuẫn về lợi ích giữa người đại diện cho toàn bộ cổ đông (chủ tịch hội đồng quản trị, các thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc) với chính các cổ đông trong công ty. Những người này có thể hành động vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích của một bộ phận cổ đông có thế lực nào đó mà phương hại đến quyền lợi của các cổ đông còn lại trong công ty.
Nhiều nước trên thế giới như Mỹ, các nước trong Liên hiệp châu Âu và cả Trung Quốc đều có quy định về các chuẩn mực quản trị công ty đại chúng. Trong khi đó, theo ông Hùng, ở Việt Nam pháp luật hiện hành hầu như chưa có một điều luật nào quy định rõ ràng về chế tài đối với các hành vi vi phạm về quản trị, vi phạm lợi ích của các cổ đông.
Nhiều ý kiến cũng băn khoăn về một thực trạng khá phổ biến ở nước ta là đa số thành viên hội đồng quản trị vẫn là cổ đông lớn và chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời kiêm luôn vị trí tổng giám đốc công ty.
Một nghiên cứu gần đây của TS. Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương) cũng xác nhận thực trạng đấy. Hệ quả của nó, theo ông Cung, là sẽ dẫn đến một hệ thống quản trị tập quyền, thâu tóm bởi các cổ đông lớn và chi phối tất cả các hoạt động của công ty. Điều này không ngăn cản công ty vẫn hoạt động tốt, hiệu quả với chi phí giám sát thấp, tuy nhiên để được như vậy đòi hỏi các cổ đông lớn luôn hành động vì lợi ích lâu dài, bền vững của công ty.
Ông Cung cho rằng ở nước ta những yếu tố để buộc các cổ đông lớn hướng đến hành xử như vậy vẫn chưa hội tụ đủ. Ví dụ như hiệu lực của pháp luật nói chung và pháp luật về quản trị nói riêng; hiệu lực giám sát từ bên ngoài; văn hóa, đạo đức kinh doanh... vẫn còn thấp.
Trong khi đó, theo Tiến sĩ Sundar Venkatesh, chủ tịch hội đồng quản trị vẫn có thể kiêm nhiệm tổng giám đốc nhưng với điều kiện hội đồng quản trị phải có một số lượng thành viên độc lập (không có cổ phần, không điều hành) cân bằng với số thành viên kiêm điều hành. Thành viên độc lập thường là những người có uy tín, danh tiếng trong xã hội và khi được bầu vào hội đồng quản trị bằng uy tín và sự độc lập của mình họ sẽ hết lòng vì quyền lợi của các cổ đông.
Ở Việt Nam, một số công ty cũng đã bắt đầu xây dựng cơ chế thành viên độc lập mà trường hợp Ngân hàng ACB mời ông Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về làm chủ tịch hội đồng quản trị là một bằng chứng sinh động. Tuy nhiên, Tiến sĩ Sundar Venkatesh cho rằng tìm thành viên độc lập đã rất khó, thực thi công việc của thành viên độc lập lại càng khó vì họ cần phải có những kỹ năng nhất định về quản trị. “Họ cần phải được huấn luyện bởi các chương trình đào tạo và đảm trách công việc này không ai khác chính là các trường, viện đào tạo”.
Ngoài thành viên hội đồng quản trị độc lập, ông Nguyễn Trung Thẳng cho rằng nên có các tổ chức xếp hạng về quản trị đối với các công ty đại chúng. Việc xếp hạng không những giúp cho các nhà đầu tư biết được công ty nào có hệ thống quản trị tốt để họ đầu tư mà còn làm cho các doanh nghiệp quan tâm hơn đến việc xây dựng hệ thống quản trị.
Theo ông Thẳng, rất nhiều nước châu Á đã thực hiện việc xếp hạng quản trị như Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Ấn Độ, không lý gì Việt Nam chưa có?
(*) Corporate governance nói cụ thể là kiểm soát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty.
Quản trị để “lấy lòng” cổ đông!
Dĩ nhiên, doanh nghiệp dưới bất kỳ hình thức nào đi chăng nữa thì cũng cần được quản trị tốt (corporate governance *). Thế nhưng, với công ty cổ phần đại chúng điều này lại càng trở nên đặc biệt quan trọng hơn bao giờ hết.
Dẫn nguồn từ một khảo sát của tập đoàn Tư vấn McKinsey (Mỹ), TS. Sundar Venkatesh, giảng viên Học viện Công nghệ Á châu (AIT, Thái Lan), cho biết có tới ba phần tư số nhà đầu tư được hỏi trả lời rằng chất lượng của hội đồng quản trị quan trọng không kém kết quả tài chính. Hơn 80% ý kiến cho rằng các nhà đầu tư sẽ trả giá cao hơn cho những công ty cổ phần đại chúng thực hiện tốt quản trị so sới những công ty khác.
Đặc biệt, theo ông Nguyễn Trung Thẳng, Tổng giám đốc Masso Consulting, khảo sát trên cũng cho thấy quản trị ở các công ty đại chúng thuộc khu vực châu Á, nơi quản trị theo kiểu gia đình còn phổ biến, được các nhà đầu tư quan tâm hơn rất nhiều so với ở Mỹ là nơi mà các tiêu chuẩn quản trị đã phát triển cao. Ở khu vực này, nhà đầu tư cũng sẵn sàng trả giá cao hơn từ 19% trở lên, thậm chí ở Trung Quốc tới 25% cho những công ty đại chúng có quản trị tốt.
Điểm mấu chốt của vấn đề nằm ở hàng vạn, hàng triệu cổ đông và nhà đầu tư ở bên ngoài công ty. “Khi quản trị công ty tốt, giá trị của công ty sẽ tăng. Nếu quản trị công ty không đem lại nhiều bảo đảm cho nhà đầu tư, họ sẽ trả giá thấp cho cổ phần của công ty”, TS. Phạm Trí Hùng, Công ty Indochine Counsel giải thích.
Các cổ đông đưa lại sức mạnh về tài chính cho công ty trên thị trường vốn nhưng muốn lôi kéo được sức mạnh ấy công ty phải tạo được lòng tin ở họ. Quản trị tốt chính là phương thuốc hữu hiệu để tạo niềm tin cho các cổ đông.
“Cổ đông bên ngoài luôn có sự xung đột với cổ đông bên trong và nghĩ rằng những người này chỉ hành động vì lợi ích của bản thân mình. Ví dụ, chỉ cần công ty ký kết hợp đồng mua hàng hóa của một công ty thuộc sở hữu của một thành viên hội đồng quản trị là lập tức có người nghi ngờ ngay về giao dịch có vẻ mờ ám ấy và hội đồng quản trị ở đây rõ ràng “có vấn đề”, TS. Sundar Venkatesh phát biểu.
Để xua tan mối nghi ngờ đó, hội đồng quản trị phải tránh xa những giao dịch như vậy và điều lớn hơn là phải xây dựng được một hệ thống quản trị tốt, qua đó chứng minh cho các cổ đông biết họ không chỉ là một hội đồng quản trị sạch mà còn được kiểm soát một cách bài bản, kỹ càng.
Thế nhưng, đấy cũng chưa phải là tất cả. Quản trị không đơn giản chỉ nhằm mục đích “lấy lòng” cổ đông và nhà đầu tư mà trên hết phục vụ cho sự trường tồn và phát triển của doanh nghiệp.
“Nếu các nhà đầu tư thất bại trong việc tích cực giám sát và khép hội đồng quản trị vào kỷ luật hoặc nếu hội đồng quản trị thiếu giám sát, hướng dẫn ban giám đốc, tức là quản trị thất bại và điều đó có thể dẫn công ty đến những thảm họa kiểu tập đoàn Enron”, TS. Sundar Venkatesh đưa ra cảnh báo.
Vấn đề của chúng ta?
Mặc dù quản trị đóng một vai trò to lớn như vậy trong công ty đại chúng nhưng vấn đề này lại đang bị xem nhẹ ở Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Phạm Trí Hùng, những biểu hiện về vi phạm quản trị đang trở nên rất phổ biến, từ chuyện hội đồng quản trị phớt lờ ý kiến cổ đông; đại hội đồng cổ đông được tổ chức qua loa, hình thức, đến chuyện chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc lấy tiền của công ty chi dùng cá nhân hoặc đầu tư vào những dự án có lợi cho gia đình mình...
Ông Hùng cho rằng mâu thuẫn cơ bản trong quản trị công ty đại chúng ở nước ta hiện nay là mâu thuẫn về lợi ích giữa người đại diện cho toàn bộ cổ đông (chủ tịch hội đồng quản trị, các thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc) với chính các cổ đông trong công ty. Những người này có thể hành động vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích của một bộ phận cổ đông có thế lực nào đó mà phương hại đến quyền lợi của các cổ đông còn lại trong công ty.
Nhiều nước trên thế giới như Mỹ, các nước trong Liên hiệp châu Âu và cả Trung Quốc đều có quy định về các chuẩn mực quản trị công ty đại chúng. Trong khi đó, theo ông Hùng, ở Việt Nam pháp luật hiện hành hầu như chưa có một điều luật nào quy định rõ ràng về chế tài đối với các hành vi vi phạm về quản trị, vi phạm lợi ích của các cổ đông.
Nhiều ý kiến cũng băn khoăn về một thực trạng khá phổ biến ở nước ta là đa số thành viên hội đồng quản trị vẫn là cổ đông lớn và chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời kiêm luôn vị trí tổng giám đốc công ty.
Một nghiên cứu gần đây của TS. Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương) cũng xác nhận thực trạng đấy. Hệ quả của nó, theo ông Cung, là sẽ dẫn đến một hệ thống quản trị tập quyền, thâu tóm bởi các cổ đông lớn và chi phối tất cả các hoạt động của công ty. Điều này không ngăn cản công ty vẫn hoạt động tốt, hiệu quả với chi phí giám sát thấp, tuy nhiên để được như vậy đòi hỏi các cổ đông lớn luôn hành động vì lợi ích lâu dài, bền vững của công ty.
Ông Cung cho rằng ở nước ta những yếu tố để buộc các cổ đông lớn hướng đến hành xử như vậy vẫn chưa hội tụ đủ. Ví dụ như hiệu lực của pháp luật nói chung và pháp luật về quản trị nói riêng; hiệu lực giám sát từ bên ngoài; văn hóa, đạo đức kinh doanh... vẫn còn thấp.
Trong khi đó, theo Tiến sĩ Sundar Venkatesh, chủ tịch hội đồng quản trị vẫn có thể kiêm nhiệm tổng giám đốc nhưng với điều kiện hội đồng quản trị phải có một số lượng thành viên độc lập (không có cổ phần, không điều hành) cân bằng với số thành viên kiêm điều hành. Thành viên độc lập thường là những người có uy tín, danh tiếng trong xã hội và khi được bầu vào hội đồng quản trị bằng uy tín và sự độc lập của mình họ sẽ hết lòng vì quyền lợi của các cổ đông.
Ở Việt Nam, một số công ty cũng đã bắt đầu xây dựng cơ chế thành viên độc lập mà trường hợp Ngân hàng ACB mời ông Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về làm chủ tịch hội đồng quản trị là một bằng chứng sinh động. Tuy nhiên, Tiến sĩ Sundar Venkatesh cho rằng tìm thành viên độc lập đã rất khó, thực thi công việc của thành viên độc lập lại càng khó vì họ cần phải có những kỹ năng nhất định về quản trị. “Họ cần phải được huấn luyện bởi các chương trình đào tạo và đảm trách công việc này không ai khác chính là các trường, viện đào tạo”.
Ngoài thành viên hội đồng quản trị độc lập, ông Nguyễn Trung Thẳng cho rằng nên có các tổ chức xếp hạng về quản trị đối với các công ty đại chúng. Việc xếp hạng không những giúp cho các nhà đầu tư biết được công ty nào có hệ thống quản trị tốt để họ đầu tư mà còn làm cho các doanh nghiệp quan tâm hơn đến việc xây dựng hệ thống quản trị.
Theo ông Thẳng, rất nhiều nước châu Á đã thực hiện việc xếp hạng quản trị như Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Ấn Độ, không lý gì Việt Nam chưa có?
(*) Corporate governance nói cụ thể là kiểm soát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty.