08:38 20/04/2007

Đất vẫn chưa là tài sản cổ phần hóa

Phạm Hùng Nghị

Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ dự thảo nghị định thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP về cổ phần hóa

Nhiều ý kiến cho rằng phải tính thêm giá trị đất khi cổ phần hóa.
Nhiều ý kiến cho rằng phải tính thêm giá trị đất khi cổ phần hóa.
Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ dự thảo nghị định thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP về cổ phần hóa.

Nhiều người hy vọng nghị định mới này sẽ khắc phục được nhiều vấn đề bất cập hiện nay trong tiến trình cổ phần hóa, đặc biệt trong việc đảm bảo không thất thoát tài sản Nhà nước và quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp.

Một số nội dung mới đáng chú ý trong nghị định mới này là cổ đông chiến lược không được giảm 20% giá đấu bình quân; phải bán ít nhất 30% cổ phần ra công chúng; đa dạng hóa phương thức bán cổ phần lần đầu gồm: đấu giá, bán thỏa thuận, bảo lãnh phát hành...; khi nhà đầu tư từ chối mua trên 30% số lượng cổ phiếu bán ra thì phải tổ chức đấu thầu lại, chứ không chọn thầu cho những người trả giá thấp hơn; xác định giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường.

Đất vẫn chưa là tài sản

Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp khi xác định giá trị doanh nghiệp và khi bán cổ phần phụ thuộc nhiều vào mặt bằng tài sản được giao. Có những doanh nghiệp, tuy không có thương hiệu mạnh, cũng không có khả năng sinh lợi cao trong phương án sản xuất kinh doanh, không có giá trị lợi thế, nhưng nhờ có ưu thế về mặt bằng nhà xưởng nên giá cổ phiếu khi đưa ra đấu giá tăng rất cao.

Hậu quả là công nhân của những đơn vị này dù được mua cổ phần với giá ưu đãi giảm tới 40% nhưng cũng không đủ tiền để mua, và phải bán non cho các nhà đầu tư lớn.

Ngoài ra, theo các chuyên gia, kỹ thuật xác định giá trị doanh nghiệp và giá khởi điểm đấu giá phải chăng là có vấn đề? Vì có những doanh nghiệp, khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, thì tăng cao hơn so với sổ sách; nhưng khi xác định giá khởi điểm chào bán đấu giá cổ phần, thì chỉ ở mức xấp xỉ, thậm chí thấp hơn mệnh giá cổ phần theo quy định (10.000 đồng/cổ phần). Và đặc biệt khi đấu giá thì lại tăng cao.

Lý giải cho rằng, doanh nghiệp có tài sản nhiều nhưng khả năng sinh lợi thấp; và tuy khả năng sinh lợi thấp, nhưng có nhiều mặt bằng thì hứa hẹn khai thác được lãi cao! Do vậy nhiều ý kiến cho rằng phải tính thêm giá trị đất khi cổ phần hóa.

Về việc thí điểm đưa một phần giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, theo ông Nguyễn Thiềng Đức, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Tp. HCM, việc coi đó là vốn của Nhà nước góp vào công ty cổ phần theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 23/03/2003 - Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, là chủ trương đúng đắn.

Bởi khi đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị của doanh nghiệp cổ phần hóa sẽ có tác động buộc doanh nghiệp phải cân nhắc và sử dụng hợp lý các mặt bằng: nếu chiếm quá nhiều đất đai so với nhu cầu sử dụng sẽ dẫn đến giá trị doanh nghiệp tăng lên quá mức.

Như vậy, việc tính một phần giá trị quyền sử dụng của đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là phù hợp, và là điều kiện tạo lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Về vấn đề này, Tp.HCM đã tiến hành làm dự án thí điểm, theo đó, nếu thực hiện theo các quy định hiện hành thì việc tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị cổ phần hóa phải sát với giá thị trường, nhưng muốn tính giá trị quyền sử dụng đất phải thuê các trung tâm tư vấn thẩm định giá để xác định giá, việc thẩm định giá mất nhiều thời gian và thường giá đất được định rất cao; và với giá trị cao và trước áp lực cổ tức của cổ đông, các doanh nghiệp vẫn chọn hình thức thuê đất. Do vậy, để bảo đảm sử dụng hiệu quả giá trị đất đai, cần điều chỉnh giá thuê đất cho phù hợp.

Ngoài ra, theo ông Đức, việc tính một phần giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chỉ có ý nghĩa và tác dụng huy động nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, khi đảm bảo cổ tức lớn hơn trái phiếu Chính phủ thời hạn 10 năm; trường hợp ngược lại, thậm chí nhỏ hơn cả lãi suất tiền gửi tiết kiệm, thì sẽ có thể phản tác dụng.

Ông Nguyễn Thiềng Đức cũng đề nghị là trước mắt, chỉ với phương thức điều chỉnh giá thuê sát mặt bằng giá thị trường, thì khả năng thu hồi các mặt bằng diện tích hiện do các doanh nghiệp găm giữ cũng là một thắng lợi theo tinh thần Nghị quyết, trong khi chờ nghiên cứu hoàn thiện điều kiện đầy đủ để tính giá đất vào giá trị các doanh nghiệp cổ phần hóa.

Để người công nhân có quyền làm chủ

Để việc sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước đạt được các mục tiêu như đã đề ra, các chuyên gia kiến nghị một số nội dung, đặc biệt liên quan đến người lao động, như:

- Về thực hiện các chế độ hỗ trợ lao động dôi dư theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP và 155/2004/NĐ-CP của Chính phủ, đề nghị cho thực hiện tiếp tục đến 2010 để tạo điều kiện sắp xếp chuyển đổi các công ty nhà nước sang công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp (thay vì chỉ mới được Chính phủ cho tiếp tục áp dụng trong năm 2006). Đặc biệt, đề nghị cụ thể cho rõ việc cho nghỉ hưu sớm (tối đa 5 năm) đối với ngành nghề nặng nhọc độc hại đã được cho hưu sớm hơn hay không?

- Sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để hướng dẫn xử lý những vấn đề phát sinh mới trong quá trình cổ phần hóa như việc thông thầu, thoái thầu (ngay khi bán cổ phần lần đầu của cổ phần hóa, với những chế tài tương tự như việc giao dịch nội gián trong kinh doanh chứng khoán, theo Luật Chứng khoán), khái niệm cụ thể về nhà đầu tư chiến lược, về quyền lợi tham dự của các cổ đông sở hữu ít cổ phần, hướng dẫn cụ thể về chế độ lương thưởng, phụ cấp cho người đại diện vốn Nhà nước trong công ty cổ phần, quy chế mẫu quy chế tài chính của tổng công ty và công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con...

Quan trọng hơn, theo ông Nguyễn Thiềng Đức, để tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có khả năng mua được cổ phần theo giá ưu đãi, đề nghị thay vì giảm 40% trên bình quân đấu giá, thì xin cho họ được mua với mức giảm 40% trên giá đấu giá thành công thấp nhất.

Và cũng nên nghiên cứu thêm việc tiếp tục cho duy trì trở lại phương thức mua trả chậm có thời hạn, không tính lãi, cho những người lao động nghèo; đồng thời với điều kiện ràng buộc là có thể vẫn duy trì hạn chế 3 năm không được bán số cổ phần được cho mua theo giá ưu đãi.