Giá vàng năm nay: Trong nước có thể lại thấp hơn thế giới
Tình trạng cung lớn hơn cầu có thể khiến hiện tượng giá vàng trong nước thấp hơn giá thế giới xuất hiện trở lại
Tình trạng cung lớn hơn cầu có thể khiến hiện tượng giá vàng trong nước thấp hơn giá thế giới xuất hiện trở lại.
Đó là nhận định của ông Nguyễn Thành Long, Tổng giám đốc Công ty SJC khi dự báo thị trường vàng Việt nam trong năm nay và lý giải những biến động giá năm ngoái.
Nhiều người cho rằng diễn biến thị trường vàng trong năm 2006 quá phức tạp, ý kiến của ông như thế nào?
Trong năm qua, giá vàng thế giới biến động tăng giảm với biên độ rộng. Từ mức đầu năm 530 USD, giá đã tăng vọt, đạt đến đỉnh cao nhất trong 26 năm qua: 730 USD/oz vào đầu tháng 5/2006 và hiện nay xoay quanh ở mức trên 630 USD.
Giá vàng bình quân trong năm 2006 là 602,35 USD/oz, cao hơn 35% so năm 2005 (444,74 USD). Giá vàng tăng mạnh không nằm ngoài các nguyên nhân cơ bản như đồng USD tụt giá mạnh, giảm 11,3% so các ngoại tệ mạnh khác; giá dầu tăng, có lúc trên 70 USD/thùng; các căng thẳng địa-chính trị và biến động về cung cầu vàng vật chất.
Vàng không những đang thể hiện nổi bật vai trò bảo đảm giá trị tài sản, chống lạm phát mà còn là món đầu tư sinh lợi. Giá vàng thế giới biến động thất thường, phần lớn từ yếu tố đầu cơ, làm cho công tác dự báo ngày càng khó khăn, kinh doanh gặp nhiều rủi ro.
Vậy đó có phải là nguyên nhân dẫn đến giá vàng trong nước liên tục tăng giảm thất thường không, thưa ông?
Giá vàng trong nước tăng giảm theo giá thế giới nhưng có đặc điểm riêng, từ đầu năm 2006 đến tháng 3/2006, giá vàng trong nước luôn thấp hơn giá thế giới.
Bắt đầu từ tháng 4/2006, giá vàng trong nuớc cao hơn nhiều so giá thế giới mà mức cao nhất lên đến trên 1,3 triệu đồng/lượng. Nhng từ cuối tháng 10/2006 đến nay, chênh lệch giá lại đột ngột đảo chiều, giá trong nớc thấp hơn thế giới, có lúc gần 200.000 đồng/lợng.
Giá vàng trong nước có lúc thoát ly khỏi giá vàng thế giới với mức chênh lệch cao thấp bất thường như vậy là do vào thời điểm nhập khẩu có lợi, các đơn vị có quota nhập khẩu cùng lúc nhập khẩu vàng nguyên liệu ồ ạt.
Khi đã vào tiêu thụ trong nước, lượng vàng này phải chuyển hóa thành vàng miếng SJC. Nhu cầu gia công vàng SJC tăng vọt trong khi đó công suất sản xuất của công ty chỉ đủ đáp ứng được cho yêu cầu bình thường nên không đáp ứng kịp khi nhu cầu tăng nhanh.
Đến lúc quá trình gia công thành vàng SJC đã hoàn tất, lượng vàng này trở nên dư thừa, làm giá trong nước thấp hơn giá thế giới. Khi đó, các đơn vị lại ngưng nhập khẩu làm vàng nguyên liệu trên thị trường dần dần trở nên khan hiếm.
Khi chênh lệch giá vàng trong nước thấp hơn thế giới xuất hiện có lợi trở lại, các đơn vị có quota lại nhập khẩu vàng ồ ạt và chu kỳ trên lại tiếp tục tái diễn. Tình trạng này bắt đầu xuất hiện khi Ngân hàng Nhà nước có chủ trương cho phép các ngân hàng thương mại được phép nhập khẩu vàng để kinh doanh từ năm 2004 đến nay.
Một vấn đề đáng ghi nhận đối với thị trường vàng trong nước là ngoài hoạt động kinh doanh vàng của các doanh nghiệp, đã có hiện tượng nhiều người bỏ tiền đầu tư vào vàng, dựa vào mức chênh lệch và biến động tăng giảm của giá vàng để mua bán sinh lợi, thay vì chỉ để dành cất trữ như trước đây. Điều đó cũng đã góp phần làm cho mãi lực và nhu cầu gia công vàng miếng SJC tăng mạnh.
Ông nhận định thế nào về biến động của thị trường vàng trong năm tới?
Theo nhiều dự báo, giá vàng thế giới có thể tiếp tục tăng mạnh đến mức 700 USD/oz hoặc cao hơn nữa.
Lượng vàng nhập khẩu trong năm 2006 khá cao, ước tính trên 60 tấn; lượng vàng SJC tung ra thị trường cũng đạt mức kỷ lục có thể dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu, có thể xuất hiện trở lại hiện tượng giá vàng trong nước thấp hơn giá thế giới. Thị trường vàng đóng băng, mãi lực và hiệu quả kinh doanh sẽ giảm mạnh.
Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có ảnh hưởng gì đến ngành kim hoàn nước ta, thưa ông?
Ngành kim hoàn đang đứng trước bối cảnh cạnh tranh mới, khi thuế nhập khẩu hàng trang sức sẽ giảm theo lộ trình; các nhà đầu tư nước ngoài thiết lập xưởng sản xuất tại Việt Nam với công nghệ mới hiện đại và tham gia trực tiếp vào lĩnh vực nhập khẩu, phân phối tại thị trường trong nước.
Yêu cầu tái cấu trúc bộ máy, nâng cao trình độ quản lý và gia tăng đầu tư phát triển nhằm tăng cường sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế ngày càng trở nên cấp thiết.