11:22 19/05/2008

Khi hệ thống kiểm soát chỉ là hình thức

Vai trò của ban kiểm soát ở nhiều doanh nghiệp đang bị coi nhẹ, thậm chí có nơi gần như hoàn toàn bị tê liệt

Sự cố “Đường La Ngà” mới đây cũng như những vụ việc khác tương tự cho thấy một tình trạng đáng lo ngại: vai trò của ban kiểm soát ở nhiều doanh nghiệp đang bị coi nhẹ, thậm chí có nơi gần như hoàn toàn bị tê liệt.

Trong một nghiên cứu mới đây của mình, TS. Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), cho rằng việc xem nhẹ vai trò giám sát đang làm cho nguy cơ lạm dụng quyền lực trong các doanh nghiệp trở nên rất cao, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ lớn sở hữu nhà nước.

Trong vụ Công ty Cổ phần Mía đường La Ngà, ông Phạm Như Hóa, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc, sử dụng gần 18 tỉ đồng chơi chứng khoán bắt đầu từ tháng 8/2007, nhưng mãi đến tháng 4/2008 các cổ đông, kể cả cổ đông nhà nước (chiếm 51%) mới hay biết.

Mà hay biết cũng không do kết quả của sự minh bạch hay công phát hiện của hệ thống kiểm soát mà là do đại hội cổ đông thường niên bất ngờ bị hoãn, các cổ đông bàn tán xôn xao nên nội vụ mới vỡ lở. Vai trò của hệ thống kiểm soát ở đây nói chung và của ban kiểm soát nói riêng hầu như vắng bóng.

Có thể có mấy khả năng xảy ra với ban kiểm soát của công ty: một, ban kiểm soát có phát hiện và đã cảnh báo, đề xuất biện pháp ngăn chặn hành vi sai trái của ông chủ tịch; hai, biết mà để mặc; và ba là hoàn toàn không hay biết.

Khả năng thứ nhất khó xảy ra vì nếu xảy ra vụ việc đã được ngăn chặn. Như vậy, chỉ còn lại hai khả năng cuối và với khả năng nào đi chăng nữa ban kiểm soát cũng sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc không làm tròn nhiệm vụ giám sát, cảnh báo của mình.

Điều ngạc nhiên là hiện tượng trên không chỉ xảy ở “Đường La Ngà”. Tại đại hội cổ đông thường niên của Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản Hà Nội (Seaprodex Hà Nội) vào ngày 19/4 mới đây, các cổ đông cũng tá hỏa khi nhận được báo cáo tài chính cho biết ban lãnh đạo công ty đã tự ý đưa trên 16 tỉ đồng để “đầu tư tài chính ngắn hạn”, mua cổ phần của một ngân hàng cổ phần hóa.

Theo tính toán, với thời giá trên thị trường OTC hiện nay, khoản đầu tư này có thể gây lỗ tới 10 tỉ đồng. Các cổ đông - “ông chủ” của Seaprodex Hà Nội đã rất bức xúc khi một chủ trương kinh doanh như thế đã không được báo cáo công khai, giải trình rõ ràng. Trong vụ việc này, vai trò của ban kiểm soát cũng chẳng thấy đâu mặc dù nhìn vào điều lệ công ty họ có một vị trí rất quan trọng.

Trên thực tế việc thành lập ban kiểm soát tại nhiều doanh nghiệp hiện nay gần như chỉ mang tính thủ tục, hình thức. Điều lệ công ty, trong đó có các điều khoản quy định về ban kiểm soát được bê nguyên xi từ văn bản luật ra nhưng việc thực thi lại hoàn toàn không theo như vậy.

Theo ông Nguyễn Đình Cung, ở không ít công ty cổ phần, ban kiểm soát do chính các thành viên hội đồng quản trị chỉ định; thành viên ban kiểm soát vừa thiếu năng lực về chuyên môn, vừa là nhân viên cấp dưới của thành viên hội đồng quản trị và của giám đốc công ty. Chính điều này đã làm cho ban kiểm soát, cơ quan do đại hội cổ đông bầu lên để giám sát hoạt động của hội đồng quản trị và tổng giám đốc, mất đi tính độc lập, khách quan và từ đó không hoàn thành được nhiệm vụ của mình.

Ngay cả khi ban kiểm soát có ý kiến thì tiếng nói của họ đôi khi cũng chẳng có trọng lượng hoặc bị lờ đi, nhất là những ý kiến trái với ban lãnh đạo công ty. Vì thế, các thành viên ban kiểm soát thường chọn cách im lặng, dĩ hòa vi quý trong công ty. Nhiệm vụ duy nhất của họ là hưởng thù lao và xuân thu nhị kỳ làm một báo cáo vô thưởng vô phạt đệ trình đại hội cổ đông.

Trong khi đó, một trong những đặc điểm của các công ty cổ phần Việt Nam là quyền lực rất lớn tập trung vào tay các thành viên hội đồng quản trị. Họ vừa là cổ đông sở hữu lớn, lại được giao quyền quản lý, thậm chí chủ tịch hội đồng quản trị kiêm luôn giám đốc điều hành, người đại diện theo pháp luật. “Quyền lực cực lớn nhưng thường thiếu một cơ chế giám sát tương ứng”, ông Cung nhận xét. Điều này càng thể hiện rõ đối với các doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty cổ phần có tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước cao.

Ông Cung cho rằng người trực tiếp thực hiện quyền cổ đông nhà nước chỉ là người đại diện với nhiều tầng nấc theo kiểu “đại diện của đại diện thứ n”. Chưa có quy định cụ thể họ phải làm gì và làm thế nào để thực hiện quyền cổ đông. Chưa có cơ chế giám sát, tiêu chí giám sát. Thậm chí, theo quy định, vẫn cho phép tồn tại các công ty nhà nước không có hội đồng quản trị, không có ban kiểm soát. Giám đốc công ty trong trường hợp này cùng lúc “vừa đá bóng, vừa thổi còi” khi vừa giữ vai trò điều hành, quản lý, vừa giữ vai trò kiểm soát hoạt động của mình.

Hệ quả là, theo ông Cung, quyền lực trong các doanh nghiệp nói trên đang bị lạm dụng dưới nhiều hình thức để phục vụ cho lợi ích riêng của một số người. Một số hành vi lạm dụng quyền lực điển hình hiện nay tại các công ty cổ phần như: kiến nghị phát hành cổ phần ưu đãi cho thành viên hội đồng quản trị, tức thành viên hội đồng quản trị tự mình kiến nghị, rồi bỏ phiếu ưu đãi cho mình (đây thực chất là hành vi tước đoạt tài sản của công ty, của cổ đông thiểu số và cổ đông nhà nước); giao dịch nội gián và giao dịch với các bên có liên quan mà không công khai, minh bạch; lấy và sử dụng thông tin, cơ hội kinh doanh của công ty để tư lợi…

Hàng loạt vụ bê bối xảy ra trong các doanh nghiệp nhà nước như vụ Lã Thị Kim Oanh, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Công ty Điện lực Tp.HCM… và gần đây nhất, vụ Tổng công ty Miền Trung, chính là hệ lụy của sự thiếu vắng một cơ chế kiểm soát quyền lực thực chất, hiệu quả.

Thực tế còn cho thấy ngay cả khi tưởng đã có cơ chế kiểm soát “ngon lành” rồi nhưng chỉ cần buông lỏng một chút thôi thì doanh nghiệp cũng có thể phải trả giá đắt. Giới hành nghề tư vấn tiếp thị hẳn chưa quên vụ biển thủ lớn xảy ra cách đây vài năm tại công ty K. - một doanh nghiệp nước ngoài nổi tiếng trong lĩnh vực sản phẩm chăm sóc vệ sinh ở Tp.HCM.

Giám đốc tiếp thị của công ty này bấy giờ là một người có năng lực nên được trọng dụng, tin cẩn. Lợi dụng sự tin cẩn, viên giám đốc tiếp thị đã biển thủ của công ty số tiền lên tới gần 60 tỉ đồng. Nghe nói, khi phát hiện ra sự việc, công ty K. đã phải mời kiểm toán viên từ Mỹ sang để điều tra và cuối cùng đã buộc lòng sa thải kẻ biển thủ.

“Sai sót trong trường hợp này thuộc về kiểm toán nội bộ. Để xảy ra sự việc như vậy là do bỏ lơ hoạt động kiểm toán nội bộ”, một chuyên gia phân tích.