Nan giải trái phiếu doanh nghiệp
Làm thế nào để trái phiếu trở thành kênh vốn bền vững cho doanh nghiệp, không phải nghe mãi điệp khúc “con gà, quả trứng”?
Thêm một tuần nữa, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước lại bội thu khi phát hành thành công 14.758 tỷ đồng, nhưng trái phiếu doanh nghiệp vẫn tuyệt vọng trong nỗ lực tìm kiếm các nhà đầu tư suốt từ đầu năm đến nay, do bên mua chê “hàng” xấu.
Làm thế nào để trái phiếu doanh nghiệp trở thành kênh vốn bền vững cho doanh nghiệp, không phải nghe mãi điệp khúc “con gà, quả trứng”?
Kẻ ăn không hết, người lần không ra
Theo cập nhật từ các bản tin thị trường, trong tuần từ 12/11 - 16/11, để giảm bớt dư thừa vốn trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành 10.058 tỷ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Tổng kết hoạt động “bơm, hút” trong tuần, Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng tới 7.442 tỷ đồng trong khi bơm vào chỉ trên 6.500 tỷ đồng, gồm: 3.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn, 1.556 tỷ đồng qua thị trường 2 (OMO).
Đối với trái phiếu Chính phủ, trong tuần, mặc dù lãi suất giảm mạnh (mất 15 điểm, còn 9,35%/năm kỳ hạn 2 năm và mất 30 điểm, còn 9,55%/năm kỳ hạn 3 năm) nhưng thị trường sơ cấp vẫn trúng thầu 3.000 tỷ đồng do Kho bạc nhà nước phát hành.
Song song, khối lượng trái phiếu Chính phủ bảo lãnh trúng thầu 1.700 tỷ đồng, trong đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành 1.200 tỷ đồng và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành 500 tỷ đồng.
Theo kế hoạch, từ nay đến hết năm, hai đơn vị này còn phát hành thêm 10 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ bảo lãnh nhưng vì loại hàng này có độ rủi ro lớn hơn trái phiếu Chính phủ nên nhiều khả năng họ phải nâng lãi suất, gia tăng cách biệt lãi suất giữa trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính phủ bảo lãnh thì mới mong thu hút được nhà đầu tư.
Lẽ ra, đây là thời điểm căng vốn có tính chất mùa vụ nhưng vì tăng trưởng tín dụng vẫn chỉ đạt khoảng 3,35% trong 10 tháng qua (nguồn: Ngân hàng Nhà nước) khi thanh khoản dồi dào, chi phí vốn thấp, lạm phát giảm, nên dòng vốn đã neo lại ở trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Trong khi Nhà nước phát hành bội thu, thì kênh trái phiếu doanh nghiệp lại chứng kiến chuỗi ngày ảm đạm từ đầu năm đến nay.
Tính đến hết quý 3/2012, chỉ có một số đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp thành công như trái phiếu chuyển đổi của Mía đường Lam Sơn, trái phiếu BIDV (2.000 tỷ đồng), DHBank (1.000 tỷ đồng) nhưng hai tháng qua, không có thêm đợt phát hành nào.
Trên thị trường thứ cấp cũng vậy, tính đến hết quý 3/2012, thống kê từ hai sàn, khối lượng giao dịch chỉ có 500 tỷ đồng; còn trong tháng 10 và 11/2012, khối lượng giao dịch chỉ đạt 122 tỷ đồng, chủ yếu trên HOSE.
Ngán ngẩm chuyện “con gà, quả trứng”!
Trái phiếu doanh nghiệp đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp, ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam phân tích.
Cụ thể, cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp có nhiều kỳ hạn khác nhau; nếu là vốn ngắn hạn, có thể vay ngân hàng nhưng dài hạn, ngoài vay ngân hàng thì phải tìm kiếm ở các công cụ tài chính dài hạn khác, mà trái phiếu doanh nghiệp là điển hình. Vốn dài hạn là để đầu tư vào nhà xưởng, máy móc và được khấu hao dần trong nhiều năm; còn nếu dùng vốn ngắn hạn cho những hạng mục này, sẽ gặp nhiều rủi ro không những cho doanh nghiệp mà còn cả ngân hàng cấp vốn.
Nhiều năm nay, do thị trường tài chính Việt Nam còn sơ khai nên cơ cấu nguồn vốn tổ chức tín dụng hiện rất thiếu bền vững khi mà vốn ngắn hạn chiếm tới 70% cơ cấu kỳ hạn tổng nguồn. Đã có nhiều tổ chức tín dụng sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn nhưng để bù đắp rủi ro kỳ hạn, rủi ro lãi suất, họ thường yêu cầu doanh nghiệp ký hợp đồng thả nổi lãi suất. Vì vậy, khi doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn này để đầu tư dài hạn, họ luôn phải đối mặt với tình trạng mất kiểm soát phương án tài chính.
Từ thực tế này, trái phiếu doanh nghiệp là hình thức huy động vốn rất tốt, đặc biệt với trường hợp doanh nghiệp cần sử dụng nguồn vốn ổn định và dài hạn trong đầu tư. Mặt khác, chúng còn gián tiếp giảm sức ép lên hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung cấp những khoản vay trung dài hạn. Nhờ đó, đã giúp ngân hàng hoạt động đúng bản chất của mình: cấp vốn lưu động và dịch vụ thương mại thay vì sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, nhằm khắc phục khoảng trống kỳ hạn giữa tài sản “Nợ” và tài sản “Có” để phòng tránh rủi ro.
Nhiều ưu thế là vậy, nhưng tại sao trái phiếu doanh nghiệp lại quá èo uột như lâu nay?
Ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Chính phủ phân tích: với tín dụng, ngân hàng luôn có quy trình kiểm tra nên biết rất rõ nguồn vốn của mình hiện ở đâu, sử dụng vào mục đích gì, nên rủi ro được kiểm soát khá tốt.
Ngược lại, ngân hàng mua trái phiếu doanh nghiệp nhưng do quy định về phát hành loại giấy tờ có giá này không có điều khoản nào cho phép người mua trái phiếu kiểm soát mục đích sử dụng vốn của người bán, nên phát sinh nhiều rủi ro, khiến bên mua trái phiếu rất e ngại, nhất là trong tình hình hiện nay.
Có lẽ bởi vậy mà Tổng thư ký Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam Đỗ Ngọc Quỳnh cho rằng, giới kinh doanh trái phiếu luôn phải cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, không phải cứ lãi suất cao là họ sẵn sàng bỏ tiền ra. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, cầu trong và ngoài nước đều thấp, chi phí cao, năng lực cạnh tranh kém, tiêu thụ hàng hóa giảm, nguồn thu không có, ngân hàng không chắc đã thu được “gốc, rễ” thì việc phát hành trái phiếu là khó.
Để giải quyết bế tắc này, ông Quỳnh đưa ra mấy điểm lưu ý sau.
Thứ nhất, về góc độ quản lý, Chính phủ cần khôn ngoan lựa chọn những lĩnh vực có nhiều lợi thế so sánh và sẵn sàng bỏ tiền ra đầu tư hạ tầng, tạo ra nền tảng cơ sở vững chắc, từ đó lôi kéo đầu tư tư nhân vào cuộc.
Thứ hai, doanh nghiệp ngoài việc xây dựng cơ cấu tài chính bền vững, hoạt động hiệu quả thì phải coi minh bạch thông tin như là điều kiện bắt buộc trong quá trình cạnh tranh thu hút nhà đầu tư tìm đến với trái phiếu của mình.
Thứ ba, một thực tế lâu nay là Chính phủ luôn kêu gọi thành viên phải tích cực mua bán để thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng thanh khoản và phát triển, nhưng bên mua lại đòi Chính phủ là phải phát triển khung pháp lý và hạ tầng, thông tin doanh nghiệp phải minh bạch thì họ mới mua. Đằng này, hạ tầng kém phát triển, không có tổ chức xếp hạng tín nhiệm, khung pháp lý không bảo vệ thành viên tham gia thị trường thì doanh nghiệp khó bán trái phiếu là điều dễ hiểu.
Như vậy, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển và doanh nghiệp tự hút được vốn thì có lẽ, phải bắt đầu từ việc giải quyết câu chuyện “con gà, quả trứng”.
Làm thế nào để trái phiếu doanh nghiệp trở thành kênh vốn bền vững cho doanh nghiệp, không phải nghe mãi điệp khúc “con gà, quả trứng”?
Kẻ ăn không hết, người lần không ra
Theo cập nhật từ các bản tin thị trường, trong tuần từ 12/11 - 16/11, để giảm bớt dư thừa vốn trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành 10.058 tỷ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Tổng kết hoạt động “bơm, hút” trong tuần, Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng tới 7.442 tỷ đồng trong khi bơm vào chỉ trên 6.500 tỷ đồng, gồm: 3.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn, 1.556 tỷ đồng qua thị trường 2 (OMO).
Đối với trái phiếu Chính phủ, trong tuần, mặc dù lãi suất giảm mạnh (mất 15 điểm, còn 9,35%/năm kỳ hạn 2 năm và mất 30 điểm, còn 9,55%/năm kỳ hạn 3 năm) nhưng thị trường sơ cấp vẫn trúng thầu 3.000 tỷ đồng do Kho bạc nhà nước phát hành.
Song song, khối lượng trái phiếu Chính phủ bảo lãnh trúng thầu 1.700 tỷ đồng, trong đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành 1.200 tỷ đồng và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành 500 tỷ đồng.
Lẽ
ra, đây là thời điểm căng vốn có tính chất mùa vụ nhưng vì tăng trưởng
tín dụng vẫn chỉ đạt khoảng 3,35% trong 10 tháng qua khi thanh khoản dồi
dào, chi phí vốn thấp, lạm phát giảm nên dòng vốn đã neo lại ở trái
phiếu chính phủ và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Theo kế hoạch, từ nay đến hết năm, hai đơn vị này còn phát hành thêm 10 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ bảo lãnh nhưng vì loại hàng này có độ rủi ro lớn hơn trái phiếu Chính phủ nên nhiều khả năng họ phải nâng lãi suất, gia tăng cách biệt lãi suất giữa trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính phủ bảo lãnh thì mới mong thu hút được nhà đầu tư.
Lẽ ra, đây là thời điểm căng vốn có tính chất mùa vụ nhưng vì tăng trưởng tín dụng vẫn chỉ đạt khoảng 3,35% trong 10 tháng qua (nguồn: Ngân hàng Nhà nước) khi thanh khoản dồi dào, chi phí vốn thấp, lạm phát giảm, nên dòng vốn đã neo lại ở trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Trong khi Nhà nước phát hành bội thu, thì kênh trái phiếu doanh nghiệp lại chứng kiến chuỗi ngày ảm đạm từ đầu năm đến nay.
Tính đến hết quý 3/2012, chỉ có một số đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp thành công như trái phiếu chuyển đổi của Mía đường Lam Sơn, trái phiếu BIDV (2.000 tỷ đồng), DHBank (1.000 tỷ đồng) nhưng hai tháng qua, không có thêm đợt phát hành nào.
Trên thị trường thứ cấp cũng vậy, tính đến hết quý 3/2012, thống kê từ hai sàn, khối lượng giao dịch chỉ có 500 tỷ đồng; còn trong tháng 10 và 11/2012, khối lượng giao dịch chỉ đạt 122 tỷ đồng, chủ yếu trên HOSE.
Ngán ngẩm chuyện “con gà, quả trứng”!
Trái phiếu doanh nghiệp đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp, ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam phân tích.
Cụ thể, cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp có nhiều kỳ hạn khác nhau; nếu là vốn ngắn hạn, có thể vay ngân hàng nhưng dài hạn, ngoài vay ngân hàng thì phải tìm kiếm ở các công cụ tài chính dài hạn khác, mà trái phiếu doanh nghiệp là điển hình. Vốn dài hạn là để đầu tư vào nhà xưởng, máy móc và được khấu hao dần trong nhiều năm; còn nếu dùng vốn ngắn hạn cho những hạng mục này, sẽ gặp nhiều rủi ro không những cho doanh nghiệp mà còn cả ngân hàng cấp vốn.
Nhiều năm nay, do thị trường tài chính Việt Nam còn sơ khai nên cơ cấu nguồn vốn tổ chức tín dụng hiện rất thiếu bền vững khi mà vốn ngắn hạn chiếm tới 70% cơ cấu kỳ hạn tổng nguồn. Đã có nhiều tổ chức tín dụng sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn nhưng để bù đắp rủi ro kỳ hạn, rủi ro lãi suất, họ thường yêu cầu doanh nghiệp ký hợp đồng thả nổi lãi suất. Vì vậy, khi doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn này để đầu tư dài hạn, họ luôn phải đối mặt với tình trạng mất kiểm soát phương án tài chính.
Từ thực tế này, trái phiếu doanh nghiệp là hình thức huy động vốn rất tốt, đặc biệt với trường hợp doanh nghiệp cần sử dụng nguồn vốn ổn định và dài hạn trong đầu tư. Mặt khác, chúng còn gián tiếp giảm sức ép lên hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung cấp những khoản vay trung dài hạn. Nhờ đó, đã giúp ngân hàng hoạt động đúng bản chất của mình: cấp vốn lưu động và dịch vụ thương mại thay vì sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, nhằm khắc phục khoảng trống kỳ hạn giữa tài sản “Nợ” và tài sản “Có” để phòng tránh rủi ro.
Nhiều ưu thế là vậy, nhưng tại sao trái phiếu doanh nghiệp lại quá èo uột như lâu nay?
Ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Chính phủ phân tích: với tín dụng, ngân hàng luôn có quy trình kiểm tra nên biết rất rõ nguồn vốn của mình hiện ở đâu, sử dụng vào mục đích gì, nên rủi ro được kiểm soát khá tốt.
Ngược lại, ngân hàng mua trái phiếu doanh nghiệp nhưng do quy định về phát hành loại giấy tờ có giá này không có điều khoản nào cho phép người mua trái phiếu kiểm soát mục đích sử dụng vốn của người bán, nên phát sinh nhiều rủi ro, khiến bên mua trái phiếu rất e ngại, nhất là trong tình hình hiện nay.
Có lẽ bởi vậy mà Tổng thư ký Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam Đỗ Ngọc Quỳnh cho rằng, giới kinh doanh trái phiếu luôn phải cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, không phải cứ lãi suất cao là họ sẵn sàng bỏ tiền ra. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, cầu trong và ngoài nước đều thấp, chi phí cao, năng lực cạnh tranh kém, tiêu thụ hàng hóa giảm, nguồn thu không có, ngân hàng không chắc đã thu được “gốc, rễ” thì việc phát hành trái phiếu là khó.
Để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển và doanh nghiệp tự hút được vốn thì có lẽ, phải bắt đầu từ việc giải quyết câu chuyện “con gà, quả trứng”.
Để giải quyết bế tắc này, ông Quỳnh đưa ra mấy điểm lưu ý sau.
Thứ nhất, về góc độ quản lý, Chính phủ cần khôn ngoan lựa chọn những lĩnh vực có nhiều lợi thế so sánh và sẵn sàng bỏ tiền ra đầu tư hạ tầng, tạo ra nền tảng cơ sở vững chắc, từ đó lôi kéo đầu tư tư nhân vào cuộc.
Thứ hai, doanh nghiệp ngoài việc xây dựng cơ cấu tài chính bền vững, hoạt động hiệu quả thì phải coi minh bạch thông tin như là điều kiện bắt buộc trong quá trình cạnh tranh thu hút nhà đầu tư tìm đến với trái phiếu của mình.
Thứ ba, một thực tế lâu nay là Chính phủ luôn kêu gọi thành viên phải tích cực mua bán để thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng thanh khoản và phát triển, nhưng bên mua lại đòi Chính phủ là phải phát triển khung pháp lý và hạ tầng, thông tin doanh nghiệp phải minh bạch thì họ mới mua. Đằng này, hạ tầng kém phát triển, không có tổ chức xếp hạng tín nhiệm, khung pháp lý không bảo vệ thành viên tham gia thị trường thì doanh nghiệp khó bán trái phiếu là điều dễ hiểu.
Như vậy, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển và doanh nghiệp tự hút được vốn thì có lẽ, phải bắt đầu từ việc giải quyết câu chuyện “con gà, quả trứng”.