
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Bảy, 18/10/2025
Chu Minh Khôi
18/10/2025, 14:26
Công nghệ chỉnh sửa gen đang được ví như “cây đũa thần” của sinh học hiện đại, kỳ vọng mở ra kỷ nguyên mới trong nông nghiệp, y học và bảo tồn đa dạng sinh học. Tại Việt Nam, các nhà khoa học đã bắt đầu tận dụng công nghệ này để tạo giống cây trồng bền vững, phòng ngừa bệnh di truyền và hướng tới phát triển xanh, an toàn, có trách nhiệm.
Ngày 18/10/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”. Sự kiện quy tụ nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan báo chí nhằm thảo luận xu hướng quốc tế, thành tựu trong nước và giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, khoa học và công nghệ đang là động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Theo Thứ trưởng, tinh thần đổi mới sáng tạo đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; và tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 10/7/2024), coi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, hướng tới nền kinh tế có giá trị gia tăng caoứ
Hiện nay, khoa học công nghệ đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành nông nghiệp.
Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu 67–70 tỷ USD, minh chứng cho hiệu quả của đổi mới công nghệ".
Ông nhấn mạnh, công nghệ sinh học đang trở thành lĩnh vực mũi nhọn với các ứng dụng như chuyển gen, chỉ thị phân tử, nuôi cấy mô, tế bào… nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, để khoa học công nghệ thực sự phát huy hiệu quả, cần hoàn thiện khung pháp lý và tạo môi trường để nhà khoa học yên tâm cống hiến.
Thứ trưởng ví diễn đàn lần này như một “Khoán 10” mới trong khoa học, góp phần “cởi trói” cho nghiên cứu, khuyến khích sáng tạo và hình thành cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen. Một là đánh giá đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng, không phụ thuộc vào công nghệ tạo ra. Hai là đánh giá dựa trên công nghệ sử dụng.
Tại Australia, từ năm 2019, các sinh vật được chỉnh sửa theo cơ chế SDN1 (không chèn DNA ngoại lai) không còn bị xem là sinh vật biến đổi gen (GMO). “Xu hướng toàn cầu đang chuyển dịch theo hướng khuyến khích đổi mới, bảo đảm an toàn và minh bạch trong thương mại nông nghiệp. Nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á, đang hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng lợi ích của công nghệ này,” ông Long nhấn mạnh.
Theo ông, nhiều nước coi công nghệ chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững, đánh giá sản phẩm chủ yếu dựa trên đặc tính cuối cùng thay vì quy trình công nghệ, đặc biệt với các sản phẩm không chứa DNA ngoại lai.
"Tại Việt Nam, Luật Đa dạng sinh học 2008 đã đề cập sinh vật biến đổi gen, song chưa có quy định riêng cho công nghệ chỉnh sửa gen. Việt Nam đang xem xét sửa đổi Luật Đa dạng sinh học 2008 để cập nhật khái niệm, quy định và xây dựng cơ chế quản lý, thương mại phù hợp với xu thế quốc tế", ông Long chia sẻ.
TS. Michael Leader, thành viên Tổ Công tác Chỉnh sửa gen của CropLife Châu Á, cho biết để một giống cây trồng biến đổi gen (GMO) ra thị trường cần trung bình 16 năm, trong đó hơn nửa thời gian dành cho thủ tục đăng ký, tiêu tốn hàng triệu USD. Ông nhấn mạnh, chỉnh sửa gen gần với phương pháp tạo giống truyền thống, vì vậy không nên để quy trình pháp lý đối với giống chỉnh sửa gen diễn ra lâu như biến đổi gen.
Theo ông Michael Leader, nhiều quốc gia Mỹ Latinh và châu Á – Thái Bình Dương đã áp dụng khung pháp lý linh hoạt, đánh giá dựa trên việc sản phẩm có chứa DNA ngoại lai hay không. Thái Lan nghiên cứu đậu tương, ngô, sắn; Indonesia và Philippines coi sản phẩm không có vật liệu di truyền mới là thông thường.
TS. Leader cho rằng sự thiếu minh bạch trong chính sách đang cản trở nông dân và nhà khoa học tiếp cận công nghệ, trong khi nơi có quy định rõ ràng lại thu hút mạnh mẽ nghiên cứu và hợp tác thương mại. Ông cho biết, hiện có khoảng 200 mục tiêu chỉnh sửa gen thương mại đang được phát triển toàn cầu, mở ra triển vọng lớn cho nông nghiệp hiện đại.
Công nghệ chỉnh sửa gen phát triển mạnh từ đầu những năm 2000, tập trung vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng kháng sâu bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ưu điểm nổi bật là có thể rút ngắn chu kỳ chọn giống từ 6–15 năm xuống còn 2–5 năm, đồng thời tăng độ chính xác trong chọn lọc tính trạng mong muốn".
Theo TS. Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp), công nghệ chỉnh sửa gen đang mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại, với ưu thế rút ngắn thời gian và chi phí nghiên cứu so với công nghệ chuyển gen truyền thống.
TS. Phương cho rằng cần phân biệt rõ giữa công nghệ chuyển gen (transgenic) – tạo sinh vật có ADN ngoại lai, và chỉnh sửa gen (gene editing) – thay đổi ADN nội sinh. Trong đó, CRISPR-Cas9 là công cụ phổ biến nhất, cho phép tạo ra các đột biến chính xác mà không để lại ADN lạ.
Ở Việt Nam, nhiều cơ sở như Viện Di truyền Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM đã làm chủ công nghệ này và tạo ra nhiều sản phẩm cây trồng mới như lúa chịu mặn, đậu tương giảm đường khó tiêu, cà chua giàu carotenoid, ngô và đu đủ tăng năng suất. Tuy nhiên, do chưa có quy chế quản lý riêng, nhiều kết quả vẫn chưa thể thương mại hóa.
“Chỉnh sửa gen đã được xác định là công nghệ chiến lược. Điều quan trọng là cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho nhà khoa học và doanh nghiệp ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu,” TS. Phương nhấn mạnh.
Ông cũng đề xuất Việt Nam nên tiếp cận quản lý cây trồng chỉnh sửa gen theo hướng đánh giá sản phẩm cuối cùng thay vì phương pháp tạo ra; đồng thời điều chỉnh khái niệm trong Luật Đa dạng sinh học, xác định rõ “sinh vật biến đổi gen” chỉ bao gồm những sinh vật được tạo ra bằng công nghệ chuyển gen.
Do Luật Đa dạng sinh học 2008 chưa cập nhật khái niệm “chỉnh sửa gen”, các sản phẩm này dù không chứa DNA ngoại lai vẫn bị xếp chung với GMO, gây khó khăn cho thương mại hóa và hội nhập quốc tế. Các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần tách biệt rõ khái niệm, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý linh hoạt, minh bạch, phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp hiện nay.
MultiWash - máy giặt 3 lồng tích hợp đầu tiên tại Việt Nam, kết hợp công nghệ AI và thiết kế ứng dụng cao, tối ưu trải nghiệm sống hiện đại.
Sau 5 năm triển khai EVFTA, kim ngạch thương mại Việt Nam - EU đạt gần 78 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 10,1%/năm. Tuy nhiên, để duy trì đà phát triển, cả hai bên cần nhanh chóng thích ứng với những thay đổi của kinh tế toàn cầu và khai thác các cơ hội hợp tác mới...
Cơ hội lớn từ sáp nhập địa giới hành chính đang mở ra cho các tỉnh phía Bắc, nhưng để biến tiềm năng thành động lực tăng trưởng thực sự, cần giải quyết đồng bộ từ thể chế đến hạ tầng...
Với dân số hơn 250 triệu người và phần đông là người trẻ (65% dân số dưới 30 tuổi), Pakistan là một thị trường tiêu dùng khổng lồ với nhu cầu ngày càng tăng về nhiều mặt hàng. Cùng với dân số hơn 100 triệu người của Việt Nam, chúng ta có một thị trường chung gần 360 triệu người, tạo nên quy mô kinh tế đáng kể...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: