13:00 28/04/2025

50 năm phát triển vượt bậc của ngành nông nghiệp Việt Nam

Lê Minh Hoan*

Trong 50 năm qua, ngành Nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển từ chỗ thiếu hụt lớn thành nước bảo đảm được an ninh lương thực trong nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với lượng gạo xuất khẩu hàng đầu thế giới. An ninh lương thực được bảo đảm đã góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam từ độc canh lúa chuyển dần sang phát triển nông nghiệp tương đối toàn diện…

Ngành nông nghiệp Việt Nam đã góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với lượng gạo xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Ngành nông nghiệp Việt Nam đã góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với lượng gạo xuất khẩu hàng đầu thế giới.

Vào thời điểm thống nhất đất nước, năm 1975, tổng sản lượng lúa (thóc) của cả nước mới chỉ đạt 5,49 triệu tấn, năng suất lúa đạt 21,1 tạ/ha. Với dân số khi ấy là 46,5 triệu người, sản lượng lương thực bình quân đầu người nước ta mới đạt 243,3 kg, trong đó sản lượng thóc chỉ đạt 118 kg/người. Vì vậy, năm 1975 nước ta phải nhập khẩu 880.000 tấn lương thực quy thóc. Về chăn nuôi, tổng sản lượng thịt mới chỉ đạt khoảng 450 nghìn tấn thịt các loại, hầu hết là sản phẩm từ các giống vật nuôi nội năng suất thấp.

Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản vào năm 1976 mới chỉ có một số mặt hàng với khối lượng và kim ngạch còn rất nhỏ (cà phê 8.200 tấn, chè 7.900 tấn, cao su 27.800, một số quả tươi và đóng hộp…), với tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành chưa đến 100 triệu USD. Trong khi đó, Việt Nam phải nhập siêu rất lớn về lương thực, thực phẩm.

Trong 50 năm qua, ngành Nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển từ chỗ thiếu hụt lớn thành nước bảo đảm được an ninh lương thực trong nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với lượng gạo xuất khẩu hàng đầu thế giới. An ninh lương thực được bảo đảm đã góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam từ độc canh lúa chuyển dần sang phát triển nông nghiệp tương đối toàn diện.

DẤU ẤN 50 NĂM

Những năm 1976-1981, Việt Nam phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn lương thực mỗi năm, tỷ lệ đói nghèo gần 70%. Nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn về nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam dần phát huy lợi thế về sản xuất nông sản, bao gồm lúa gạo, luôn duy trì sự ổn định, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trong nước.

Ông Lê Minh Hoan: "Nhờ chính sách đổi mới và phát triển, Việt Nam thực sự trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản".
Ông Lê Minh Hoan: "Nhờ chính sách đổi mới và phát triển,
Việt Nam thực sự trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản".

Năm 2024, sản lượng lương thực có hạt của Việt Nam đạt 48 triệu tấn, trong đó sản lượng lúa (thóc) đạt 43,5 triệu tấn; sản lượng ngô đạt hơn 4,4 triệu tấn; cao gấp gần 9 lần so với năm 1975. Nhờ sản xuất phát triển, ngành nông nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của gần 100 triệu dân trong nước. Đồng thời, Việt Nam còn xuất khẩu sang nhiều nước nhằm hỗ trợ bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.

Đối với cây công nghiệp lâu năm, xuất phát điểm năm 1975, diện tích và sản lượng rất thấp. Hiện nay, bình quân mỗi năm nước ta sản xuất được: 1,3-1,7 triệu tấn cà phê; 170-200 nghìn tấn hạt tiêu; 360-400 nghìn tấn hạt điều; trên 2,1 triệu tấn trái cây các loại; 1,3-1,5 triệu tấn mủ cao su… Đối với ngành hàng chăn nuôi, tổng sản lượng thịt các loại năm 2024 đạt 8,1 triệu tấn, cao gấp gần 20 lần so với năm 1975.

Nhờ chính sách đổi mới và phát triển, Việt Nam thực sự trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản. Nếu năm 1986, giá trị xuất khẩu nông sản mới chỉ đạt 486,2 triệu USD thì đến năm 2000, lên 4,2 tỷ USD và đến năm 2024 lên tới 62,5 tỷ USD, cao gấp 125 lần so với năm 1986, và cao gấp 625 lần so với năm 1975. Trong giai đoạn 1986 - 2024, tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt trung bình 13,5%/năm. Những mặt hàng xuất khẩu đem lại giá trị cao trong năm 2024 phải kể đến như: gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,2 tỷ USD; thủy sản đạt hơn 10 tỷ USD; rau quả đạt 7,12 tỷ USD; gạo đạt 5,75 tỷ USD; cà phê 5,48 tỷ USD; hạt điều 4,48 tỷ USD, mủ cao su 3,37 tỷ USD; sắn 1,13 tỷ USD…

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2023, GDP nông nghiệp Việt Nam đạt khoảng 22,3 tỷ USD, chiếm 0,83% GDP nông nghiệp toàn thế giới, đứng thứ 5 trên thế giới. Một số nông sản của Việt Nam đứng vị thế cao trên thế giới về sản lượng, cụ thể: tiêu đứng thứ nhất, cà phê đứng thứ hai, cao su và điều đứng thứ ba, lúa gạo đứng thứ năm và chè đứng thứ sáu. Một số nông sản của Việt Nam có tỷ trọng thị phần kim ngạch xuất khẩu  xếp thứ hạng cao trên thế giới, như điều chiếm 60%, tiêu chiếm 32,2%, thủy sản chiếm 28,8%, đồ gỗ chiếm 24,3%; cao su chiếm 15%, cà phê chiếm 14,1%, lúa/gạo chiếm 10,3%, chè chiếm 8,5% và rau quả chiếm 7,8% trong tổng thị phần thương mại toàn cầu.

Đến nay nông nghiệp cũng chính là chỗ dựa cho kinh tế cả nước, là nền tảng phát triển và ổn định xã hội, và cuộc sống phần lớn dân cư nông thôn. Ngày nay, ngành nông nghiệp đang nỗ lực góp phần giảm khí nhà kính thông qua nông nghiệp xanh, bảo vệ và phát triển rừng, hướng đến những gì thân thiện với môi trường, không gây tác động tới tài nguyên thiên nhiên, không gây ra hiệu ứng nhà kính. Nhờ triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch nên sản phẩm nông nghiệp, thủy sản sạch, truy xuất được nguồn gốc chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Nông nghiệp tại Việt Nam cũng tham gia bảo tồn, tạo không gian sinh thái, gắn kết quan hệ hữu cơ con người - động vật - cây trồng, bảo đảm sức khỏe con người, đất, cây. Môi trường đất khỏe mạnh sẽ tạo ra cây trồng khỏe mạnh, nhờ đó giúp tăng cường sức khỏe của con người và động vật.

Cùng với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của toàn ngành nông nghiệp đã mang lại vị thế lớn cho nông nghiệp Việt Nam trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, ngành nông nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, hạn chế, cần tập trung khắc phục trong thời gian tới. Các yếu tố khách quan, như nguồn tài nguyên cạn kiệt, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng của thế giới đang và sẽ tác động tới sản xuất nông nghiệp của Việt Nam.

HƯỚNG TỚI NỀN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI, SẢN XUẤT QUY MÔ LỚN

Để tiếp tục phát huy vị thế này, nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới theo chủ trương, chính sách lớn hiện nay, đặc biệt là theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, ngày 16/6/2022, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 19-NQ/TW) và Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Trong đó, nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn.

Chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Theo đó, tầm nhìn đến năm 2045 hướng tới nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới.

*Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 17+18-2025 phát hành ngày 28/4/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:  

https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1374

50 năm phát triển vượt bậc của ngành nông nghiệp Việt Nam - Ảnh 1