09:21 12/03/2008

6 tác động từ suy thoái kinh tế Mỹ

Kiều Oanh

Có lý do chính đáng để lo ngại về việc “virus” tài chính ở Mỹ có thể đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn thụt lùi của kinh tế thế giới

Dân Mỹ lúc này không còn nhiều tiền để "vung tay quá trán như trước".
Dân Mỹ lúc này không còn nhiều tiền để "vung tay quá trán như trước".
Nhiều tháng qua, các nhà kinh tế học đã mất nhiều thời gian để tranh cãi về việc kinh tế Mỹ có suy thoái hay không. Nhưng lúc này, mọi chuyện đã quá rõ.

Tổng thống Bush có thể tiếp tục thúc đẩy kế hoạch kinh thích kinh tế trọn gói trị giá 150 tỷ USD của ông và Cục Dự trữ Liên bang nước này (FED) có thể cắt giảm thêm lãi suất USD. Nhưng nhiều nhà quan sát tin rằng, những hành động như vậy vẫn sẽ không thể ngăn đà trượt dốc của nền kinh tế lớn nhất thế giới này.

Tình trạng thắt chặt tín dụng đang diễn ra trên toàn nước Mỹ do các tập đoàn tài chính thua lỗ chồng chất, giá dầu trên 108 USD/thùng khiến dân Mỹ chẳng thể tiêu xài mạnh tay như thường lệ, trong khi tỷ lệ thất nghiệp không ngừng tăng. Giá nhà với điệp khúc “giảm và giảm” cũng khiến những người Mỹ lúc này đã rỗng túi không thể sử dụng ngôi nhà của mình như máy rút tiền ATM để thỏa mãn thú vui mua sắm như trước. Đã đến lúc để đối mặt với với sự thật, kinh tế Mỹ suy thoái là chuyện tất yếu.

Nhiều nước trên thế giới đang theo dõi tình hình ở Mỹ với sự lo lắng lộ rõ. Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu đã tồn tại sự mất cân đối lớn. Dân Mỹ chi nhiều hơn những gì họ kiếm được và thâm hụt thương mại của nước này, do đó luôn ở mức khổng lồ. Khi cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn bắt đầu tấn công vào nước Mỹ, các nhà quan sát hy vọng nhu cầu tại các quốc gia khác trên thế giới sẽ đủ đề bù đắp cho sự sụt giảm nhu cầu tại Mỹ.

Nhưng đây là việc không dễ nếu không muốn nói là không thể. Người Mỹ tiêu dùng khoảng 9.000 tỷ USD mỗi năm, trong khi người Trung Quốc chỉ tiêu khoảng 1.000 tỷ USD, còn người Ấn chi trên dưới 600 tỷ USD. Thậm chí cả ở những nước giàu có như ở châu Âu và Nhật Bản, tốc độ tăng trưởng thu nhập thấp và tình hình bất ổn của kinh tế toàn cầu cũng đang khiến họ tiết kiệm nhiều hơn là tiêu dùng.

Nước Mỹ chiếm tới 25% GDP của toàn thế giới và một phần thậm chí còn lớn hơn trong các giao dịch tài chính quốc tế. Do đó, có lý do chính đáng để lo ngại về việc “virus” tài chính ở Mỹ có thể đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn thụt lùi của kinh tế thế giới. Điều này không có nghĩa là suy thoái kinh tế sẽ xảy ra trên toàn cầu, nhưng ít nhất nhiều nước khác sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng chậm chạp.

Dưới đây là 6 tác động chủ yếu của việc kinh tế Mỹ suy thoái đến kinh tế thế giới:

1. Thương mại toàn cầu sụt giảm: Đây là ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất. Nếu cả sản lượng và nhu cầu của nền kinh tế Mỹ cũng giảm, tiêu dùng tư nhân, đầu tư của các công ty và các hoạt động sản xuất cùng sụt giảm, dẫn tới sự sụt giảm trong nhập khẩu các loại hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa cơ bản và các nguyên vật liệu khác từ thị trường bên ngoài.

Trong khi đó, rất nhiều nước trên thế giới coi Mỹ là thị trường xuất khẩu chính, như Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á, và coi đây là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế. Do đó, nhu cầu sụt giảm ở Mỹ đồng nghĩa với sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của những nước này. Trung Quốc đặc biệt đáng lo ngại vì Mỹ là nước tiêu dùng lớn nhất thế giới còn Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Nếu người Mỹ không mua, hàng “Made in China” sẽ đi về đâu?

Trung Quốc cũng là một ví dụ rõ ràng về việc những mắt xích trong chuỗi thương mại quốc tế sẽ chịu tác động ra sao từ sự suy thoái của Mỹ. Trước đây, các trung tâm chế tạo của châu Á như Hàn Quốc và Đài Loan trực tiếp sản xuất hàng thành phẩm như hàng điện tử để xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ. Nhưng với sự nổi lên của Trung Quốc trong lĩnh vực này, các nước châu Á đã chuyển sang sản xuất linh kiện để xuất sang Trung Quốc.

Sau đó, Trung Quốc tiến hành lắp ráp rồi xuất sang Mỹ. Do đó, nhập khẩu của Mỹ đi xuống làm xuất khẩu của Trung Quốc giảm, dẫn tới nhu cầu của Trung Quốc đối với linh kiện do các nước châu Á khác sản xuất cũng “lao” theo.

2. Đồng USD yếu khiến mọi chuyện thêm tồi tệ: Sự suy yếu của kinh tế Mỹ và việc FED liên tiếp cắt giảm lãi suất USD đã khiến giá trị đồng tiền này giảm mạnh so với nhiều đồng tiền khác như Euro, Yên và Won. Đồng USD yếu sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Mỹ, nhưng lại là cơn ác mộng đối với các nhà xuất khẩu Đức, Nhật và Hàn Quốc - những nước vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sang thị trường Mỹ.

3. “Bong bóng” bất động sản sẽ nổ tung toàn cầu: Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trên thế giới có tình trạng bong bóng xảy ra trên thị trường bất động sản trong những năm gần đây. Hoạt động tín dụng lỏng lẻo, mức lãi suất thấp và dài hạn cũng diễn ra ở nhiều quốc gia khác, nhất là ở châu Âu. Mỹ không phải là nước duy nhất mà “bong bóng” bất động sản đã vỡ.

Anh, Ireland và Tây Ban Nha đi sau Mỹ có chút ít về tốc độ mất giá của nhà đất. Các nước khác với tiềm năng bong bóng bất động sản sắp vỡ bao gồm Pháp, Hy Lạp, Hungary, Italy, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước vùng Baltic. Tại châu Á, những nước như Australia, Trung Quốc, New Zealand và Singapore, “bong bóng” nhà đất đã vỡ tại một số khu vực. Đến cả Ấn Độ cũng xảy ra tình trạng bong bóng địa ốc. Những “bong bóng” này chắc chắn sẽ vỡ một khi tình trạng tín chặt tín dụng “châm kim” vào chúng, dẫn tới tốc độ tăng trưởng chậm chạp tại một số nước và suy thoái tại một số nước khác.

4. Giá hàng hóa và nguyên vật liệu thô sẽ giảm: Chỉ cần nhìn vào giá dầu cao là có thể nhận thấy nhu cầu hàng hóa của thế giới đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tình trạng này sẽ kéo dài không lâu. Đó là do hai đầu máy của kinh tế thế giới là Mỹ và Trung Quốc tăng trưởng chậm lại sẽ kéo theo sự sụt giảm mạnh nhu cầu của các loại hàng hóa như dầu, thực phẩm và khoáng sản.

Điều này tất yếu sẽ tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tăng trưởng của các nước xuất khẩu các mặt hàng này ở châu Phi, Mỹ Latin và châu Phi. Chẳng hạn, Chile là nước xuất khẩu đồng lớn nhất thế giới, đồng từ nước này được sử dụng để làm chip máy tính và dây điện. Nhu cầu của Mỹ và Trung Quốc giảm chắc chắn sẽ khiến giá cả và nhu cầu đồng cùng giảm xuống, kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Chile.

5. Niềm tin sẽ giảm mạnh: Cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn đã gây ra tình trạng thắt chặt thanh khoản và tín dụng trên Wall Street. Tình trạng này cũng đã lan rộng ra thị trường tài chính nhiều nước trên thế giới. Một lượng trái phiếu bất động sản chứa đựng đầy rủi ro và nợ thế chấp của Mỹ đã được bán cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là lý do tại sao những thất thoát tài chính do tình trạng vỡ nợ tại các thành phố Mỹ như Cleveland, Las Vegas và Pheonix lại có tác động mạnh đến Australia và châu Âu, hay thậm chí cả những ngôi làng nhỏ ở Nauy.

Niềm tin tiêu dùng bên ngoài nước Mỹ, đặc biệt là tại châu Âu và Nhật Bản, không bao giờ vững mạnh và sẽ trở nên yếu hơn trước những tin xấu về kinh tế Mỹ. Những khoản thua lỗ trong hoạt động tại Mỹ cũng sẽ khiến các tập đoàn đa quốc gia đi đến chỗ cắt giảm đầu tư vào các nhà máy không chỉ ở Mỹ mà còn nhiều nơi khác trên thế giới. Các tập đoàn tại châu Âu sẽ chịu tác động đặc biệt lớn do họ phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng nhiều hơn các doanh nghiệp Mỹ. Sự thắt chặt tín dụng toàn cầu sẽ hạn chế khả năng của họ trong việc sản xuất, thuê nhân công và đầu tư.

Cách tốt nhất để xem cơn bão tài chính này lan rộng ra sao là theo dõi thị trường chứng khoán toàn cầu. Các nhà đầu tư e dè hơn trước những rủi ro khi nền kinh tế của họ có vẻ như tăng chậm lại. Do đó, bất kỳ khi nào những thông tin xấu về kinh tế Mỹ xuất hiện, các nền kinh tế khác cũng ngay lập tức lo theo.

Một kịch bản thường gặp là các nhà đầu tư Wall Street bán tháo cổ phiếu, khiến chỉ số Dow Jones sụt giảm và một vài giờ sau, các chỉ số chính của thị trường chứng khoán châu Á cũng mở cửa với đường đi dốc xuống. Rồi sau đó, tình hình các thị trường chứng khoán châu Âu cũng diẽn biến tương tự. Điều này có thể nhận thấy rõ trong đợt suy giảm mạnh toàn cầu của thị trường chứng khoán tháng 1 vừa qua.

6. Các ngân hàng trung ương “bó tay”: Những người lạc quan tin tưởng rằng các ngân hàng trung ương có thể cứu thế giới khỏi những tác động tiêu cực của tình trạng suy thoái kinh tế ở Mỹ. Như ở kỳ suy thoái năm 2001, FED đã cắt giảm lãi suất từ 6,5% xuống còn 1%, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) giảm lãi suất từ 4% xuống 2%, còn Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) giảm lãi suất xuống 0.

Nhưng ngày nay, khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc sử dụng các công cụ tiền tệ để kích thích tăng trưởng và hạn chế tác động của tình trạng kinh tế tăng chậm lại toàn cầu đã bị hạn chế hơn trước rất nhiều. Lạm phát tăng cao tại nhiều nước đang “bó tay” các ngân hàng trung ương.

FED sẽ còn cắt giảm lãi suất, nhưng chắc chắn sẽ lo ngại về tình trạng mất giá liên tiếp của USD sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài e ngại không muốn bỏ tiền mua các loại trái phiếu của Mỹ. Và trong nền kinh tế toàn cầu nói chung, đồng USD yếu cũng là một trò chơi có tổng bằng 0, đồng USD yếu sẽ có lợi xuất khẩu của nước Mỹ, nhưng lại làm tổn thương khả năng cạnh tranh và tăng trưởng của các đối tác thương mại của Mỹ.

Chính sách tiền tệ cũng kém tác dụng hơn vào thời điểm này vì một lý do khác. Nguồn cung nhà cửa, xe cộ và các hàng hóa tiêu dùng khác trên thế giới nói chung đang rất dư dả. Nhu cầu đối với những hàng hóa này đã bớt nhạy cảm hơn trước những biến động lãi suất vì phải mất rất nhiều năm người tiêu dùng mới có thể “hút” hết lượng hàng hóa thừa mứa này. Việc cắt giảm thuế cho dân Mỹ cũng chẳng thể thay đổi tình huống, nhất là khi dân Mỹ đang nợ “như chúa chổm”.

Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay cũng được coi là đã vượt khỏi tầm kiểm soát của FED. Những vấn đề mà kinh tế Mỹ đang phải đối mặt không phải là thiếu tiền mà là những khoản nợ không trả nổi. Hàng triệu ngôi nhà đang đứng trước nguy cơ bị tịch biên vì người sở hữu không có tiền trả nợ và hơn 100 tổ chức cho vay cầm cố đang có nguy cơ phá sản.

Mặt khác, không chỉ cho vay cầm cố, các ngân hàng của Mỹ còn thả cửa cho vay để các doanh nghiệp đầu tư vào các vụ mua lại hoặc các loại tài sản địa ốc thương mại. Do đó, nếu kinh tế Mỹ tiếp tục xấu đi, lượng vỡ nợ của các doanh nghiệp cũng sẽ tăng vọt.

Thêm vào đó, ở Mỹ còn tồn tại một hệ thống ngân hàng “chợ đen” bao gồm những tổ chức tài chính không phải là ngân hàng nhưng lại vay tiền ngắn hạn để cho vay hoặc đầu tư dài hạn. Chẳng hạn, các quỹ đầu tư thị trường tiền tệ có thể bị rút sạch vốn trong vòng một đêm, hay các quỹ phòng hộ chỉ được báo trước 1 tháng để trả nợ. Nhiều trong số những quỹ này đã tự “trói” mình vào những loại trái phiếu có độ rủi ro cao và dài hạn do đó họ phải đối mặt với rủi ro lớn hơn vì họ không phải là đối tượng được nhận hỗ trợ của FED trong trường hợp xấu nhất.

Khả năng áp dụng các biện pháp kích thích tài chính của chính phủ hiện nay cũng đã hạn chế hơn trước rất nhiều do Mỹ, Nhật và châu Âu hiện đều cùng ở trong tình trạng thâm hụt ngân sách. Trong lần suy thoái trước, ngân sách của Mỹ đã đi từ chỗ thặng dư 2,5% GDP vào năm 2000 đến chỗ thâm hụt 3,2% GDP vào năm 2004. Nhưng lần này, thâm hụt ngân sách của Mỹ đã ở mức cao và Chính phủ Mỹ chỉ có thể thực hiện kích thích tài chính bằng 1% GDP theo như đã nêu trong kế hoạch kích thích kinh tế trọn gói mới đây của ông Bush. Tình hình ở Mỹ và châu Âu cũng tương tự.

Vào thời điểm hiện nay, kế hoạch kích thích kinh tế này của ông Bush quá nhỏ để có thể tạo ra một sự khác biệt lớn, và những gì mà FED đang làm là quá ít ỏi và muộn màng. Nước Mỹ sẽ phải mất nhiều năm để giải quyết những vấn đề đã dẫn tới cuộc khủng hoảng này. Quản lý yếu kém đối với hoạt động cho vay cầm cố, sự thiếu minh bạch đối với những sản phẩm tài chính phức tạp, chính sách khuyến khích thiếu hợp lý trong gói lương thưởng cho lãnh đạo các ngân hàng, quản lý rủi ro kém, đánh giá tín dụng sai lầm… và còn rất nhiều vấn đề khác nữa.

Cuối cùng, trong thế giới phẳng ngày nay, sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia vào những thời điểm tốt đẹp. Nhưng không may, chính những ràng buộc thương mại và tài chính này cũng đồng nghĩa với việc tăng trưởng yếu đi ở nơi này sẽ kéo theo tăng trưởng ở những nơi khác. Không phải nước nào cũng sẽ suy thoái cùng với Mỹ, nhưng chắc chắn không nước nào có thể “miễn nhiễm”.

(Theo Foreign Policy)