Ba vấn đề then chốt trên thị trường cho vay tiêu dùng
Hoàng Lan
23/05/2023, 13:00
Theo giới phân tích, thị trường tài chính tiêu dùng còn nhiều dư địa tăng trưởng bởi quy mô dư nợ vay tiêu dùng của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 27,17% GDP so với tỷ lệ trung bình 60-70% GDP của các nước trong khu vực châu Á. Tuy nhiên, trước khi đánh thức tiềm năng, cần gia cố cơ sở hạ tầng cho thị trường, bao gồm ba vấn đề: hành lang pháp lý chặt chẽ liên quan đến lãi suất cho vay, thu hồi nợ và hệ thống chấm điểm tín dụng cá nhân đủ tiêu chuẩn…
Thị trường cho vay tiêu dùng tại Việt Nam còn nhiều dư địa.
Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tính đến 31/12/2022, tổng dư nợ của 16 công ty tài chính do Ngân hàng Nhà nước cấp phép đạt trên 220 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,87% so với tổng dư nợ toàn nền kinh tế và 8,5% dư nợ cho vay tiêu dùng toàn hệ thống; qua đó, hỗ trợ khoảng 30 triệu người tiếp cận vốn vay với dư nợ bình quân khoảng 35-50 triệu đồng.
TÀI CHÍNH TIÊU DÙNG PHI CHÍNH THỨC NỞ RỘ
Ông Lê Xuân Đồng, Giám đốc điều hành Khối Dịch vụ nghiên cứu thị trường và Tư vấn, FiinGroup, cho biết hiện nay thị trường tài chính tiêu dùng bao gồm kênh tín dụng chính thức và phi chính thức.
Kênh chính thức được cung cấp từ các tổ chức tín dụng cấp phép bởi Ngân hàng Nhà nước và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, gồm ngân hàng thương mại và công ty tài chính.
Kênh phi chính thức bao gồm các chuỗi cửa hàng cầm đồ và các tiệm cầm đồ nhỏ lẻ, các công ty cho vay ngang hàng (P2P lenders), các công ty cho vay trong ngày, các apps cho vay (Payday lenders) và các công ty Fintech cung cấp dịch vụ mua trước trả sau (Buy Now Pay Later - BNPL).
Theo đại diện của FiinGroup, thị trường tài chính tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sinh hoạt và tiêu dùng của người dân, đặc biệt là nhóm khách hàng yếu thế, không thể tiếp cận được vốn vay từ các ngân hàng thương mại. Đây cũng là một thị trường có tiềm năng tiếp tục tăng trưởng tốt trong tương lai khi quy mô dư nợ vay tiêu dùng của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 27,17% GDP so với tỷ lệ trung bình từ 60-70% GDP tại các quốc gia châu Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Malaysia…
Ngoài ra, Việt Nam được xem là một trong những quốc gia châu Á có thị trường tài chính tiêu dùng giàu tiềm năng với dân số 100 triệu người, độ tuổi trung bình trẻ (33,7 tuổi) cùng với sự phát triển kinh tế ổn định, mức tiêu dùng của người dân ngày càng tăng.
Tuy nhiên, do sự tăng trưởng nhanh và khuôn khổ pháp lý, cơ sở hạ tầng cho thị trường chưa hoàn thiện, nên thời gian qua đã xảy ra nhiều vấn đề gây bức xúc dư luận liên quan đến lãi suất cho vay và thu hồi nợ.
Theo dữ liệu từ FiinGroup, các ngân hàng thương mại chủ yếu cho vay các khách hàng có thu nhập ổn định, có tài sản đảm bảo hoặc lịch sử tín dụng tốt với các sản phẩm có giá trị khoản vay cao, thời gian dài. Cơ cấu tín dụng tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại năm 2022 như sau: cho vay mua nhà, cải tạo nhà: 65%; cho vay tiền mặt: 25%; cho vay mua phương tiện đi lại (xe hai bánh và xe bốn bánh): 5,5 -6%; thẻ tín dụng: 5%.
Trong khi đó, các công ty tài chính được Ngân hàng Nhà nước cấp phép tập trung cho vay nhóm khách hàng thu nhập thấp với các sản phẩm cho vay tín chấp, giá trị khoản vay nhỏ, thời gian ngắn. Năm 2022, cơ cấu dư nợ của các công ty tài chính như sau: cho vay tiền mặt 65%; cho vay mua phương tiện đi lại (xe hai bánh và xe bốn bánh): 16%; cho vay mua hàng hóa lâu bền (hàng điện tử, điện máy,...): 10%; thẻ tín dụng: 9%.
Về đối tượng cho vay, các ngân hàng thương mại chiếm lĩnh toàn bộ nhóm khách hàng có thu nhập trung bình từ 20 triệu đồng/tháng trở lên. Đối với nhóm khách hàng có thu nhập trung bình từ 7-20 triệu đồng/tháng, các công ty tài chính và ngân hàng cùng khai thác. Với mức thu nhập từ 4-7 triệu đồng/tháng, khách hàng chủ yếu vay qua công ty tài chính và các kênh cho vay phi chính thức.
Đặc biệt, nhóm khách hàng dưới chuẩn ngân hàng (underbank) có thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng thì không tiếp cận được các tổ chức tín dụng, mà thường tìm đến các kênh phi chính thức, như: cầm đồ, P2P, các apps cho vay…
Các loại hình cho vay tiêu dùng phi chính thức bùng nổ trong thời gian gần đây, hoạt động theo các quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Đối với các hình thức cho vay ngang hàng (P2P Lending), cho vay theo ngày (Payday Lending), các bên cung cấp dịch vụ là các công ty Fintech (công nghệ tài chính), các apps cho vay…
Dịch vụ mua trước trả sau (BNPL) cho phép người tiêu dùng mua sản phẩm trước, sau đó thanh toán hóa đơn thành nhiều khoản nhỏ. Các bên cung cấp dịch vụ là các công ty Fintech, ví điện tử, nhà bán lẻ, nền tảng thương mại điện tử liên kết với các tổ chức tín dụng như ngân hàng thương mại, công ty tài chính.
Khoảng 5 năm trở lại đây, chuỗi cửa hàng cầm đồ phát triển nhanh chóng với mạng lưới rộng khắp tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Những chuỗi cầm đồ này hoạt động theo Giấy đăng ký kinh doanh được Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố cấp phép và tuân theo các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện (Nghị định 96/2016), được phép cung cấp các khoản vay cầm cố, có tài sản đảm bảo.
LỖ HỔNG TRONG KIỂM SOÁT LÃI SUẤT VÀ THU HỒI NỢ
Theo các chuyên gia, Việt Nam đang thiếu các quy định và cơ chế kiểm soát trần lãi suất cho vay và các loại phí kèm theo đối với các hình thức tài chính tiêu dùng phi chính thức.
Đối với các tổ chức tín dụng (ngân hàng, công ty tài chính), Ngân hàng Nhà nước có cơ chế kiểm soát lãi suất cho vay tiêu dùng như sau: (i) lãi suất được xác định dựa trên thỏa thuận với khách hàng nhưng cần thông báo với Ngân hàng Nhà nước về khung lãi suất cho vay và áp dụng thống nhất toàn hệ thống; (ii) không thu thêm bất kỳ khoản phí nào khác; (iii) được Ngân hàng Nhà nước định hướng kiểm soát mức lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng trong phân khúc thu nhập thấp.
Đối với các hình thức cho vay tiêu dùng phi chính thức, hoạt động theo các quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 và chỉ bị kiểm soát trần lãi suất cho vay tối đa 20%, không hạn chế về các phí dịch vụ. Do đó, lãi suất thực tế mà khách hàng phải trả có thể lên tới vài chục phần trăm, thậm chí vài trăm %/năm, vì ngoài lãi suất cho vay (1,3%/tháng), các bên cho vay phi chính thức thường cộng thêm hàng loạt loại phí, như: phí thẩm định (thông thường 1,4%/tháng); phí quản lý tài sản đảm bảo từ 3- 5%/tháng; phí khởi tạo khoản vay…
Hiện nay, 16 công ty tài chính được cấp phép đang cùng khai thác 2 tệp khách hàng với các kênh cho vay phi chính thức là khách hàng thu nhập thấp và khách hàng dưới chuẩn ngân hàng. Điều này khiến các công ty tài chính đang bị đánh đồng với các bên cho vay nặng lãi.
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 21-2023 phát hành ngày 22-05-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Thuế TP. Hà Nội nêu điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt được khấu trừ thuế
Kể từ ngày 1/7/2025, điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng được siết chặt khi hóa đơn trên 5 triệu đồng đều phải thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy nhiên, đi cùng với đó là sự linh hoạt hơn cho doanh nghiệp nhờ cơ chế ủy quyền thanh toán cho người lao động…
Bộ Tài chính dự kiến doanh thu phí bảo hiểm 2025 giảm 3,29% so với 2022
Bộ Tài chính cho biết tăng trưởng thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2022–2025 có dấu hiệu chậm lại, các chỉ tiêu chủ yếu chỉ tăng khoảng 10%. Do đó, bộ sẽ trình Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2025 theo thủ tục rút gọn…
Ngân hàng Nhà nước bơm ròng 15.463 tỷ đồng, lãi suất liên ngân hàng biến động nhẹ
Ngày 25/8/2025, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục sử dụng kênh thị trường mở (OMO) để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, với tổng khối lượng trúng thầu trên kênh cầm cố đạt 32.615,18 tỷ đồng...
Thu thuế quan có thể giúp Mỹ giảm 4 nghìn tỷ USD thâm hụt ngân sách
Ước tính mới nhất cho thấy hiệu ứng tăng thu ngân sách của thuế quan sẽ bù đắp gần như hoàn toàn hiệu ứng gây thâm hụt ngân sách từ đạo luật chi tiêu và giảm thuế “lớn lao và đẹp đẽ” (OBBBA) của ông Trump...
Giải pháp tài chính toàn diện cho doanh nghiệp tư vấn du học và xuất khẩu lao động
Với các gói tài chính ưu đãi, doanh nghiệp và du học sinh, lao động Việt Nam có thêm cơ hội học tập, lập nghiệp và phát triển nơi xứ người.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: