Bộ trưởng Tài chính: Nợ công tăng nhanh trước hết do điều hành
Ông Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh hai chữ “nặng nề” trong điều hành của Bộ Tài chính
“Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, nợ Chính phủ đã vượt trần, vậy lần này sửa luật có giải quyết được vấn đề này không?”, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga đặt câu hỏi khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi), sáng 20/3.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, lần sửa đổi này, Chính phủ đề xuất bổ sung 3 chương mới quy định về chỉ tiêu an toàn, chiến lược, chương trình và kế hoạch vay, trả nợ công; về quản lý cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ; về đảm bảo khả năng trả nợ công.
Đồng thời, rà soát chỉnh sửa tên chương, bổ sung thêm một số điều tại các chương trên cơ sở luật hóa các quy định tại văn bản dưới luật đã được áp dụng ổn định thời gian qua và tiếp tục đáp ứng được yêu cầu quản lý trong tình hình mới đồng thời để đảm bảo đáp ứng mục tiêu đặt ra đối với xây dựng luật và nhằm giảm thiểu các nội dung cần hướng dẫn
“Nợ của Vinashin thì ai trả?”
Đều khẳng định sự cần thiết phải sửa luật, song Uỷ ban Thường vụ Quốc hội băn khoăn nằm ở ngay phạm vi điều chỉnh.
Dự thảo luật có phạm vi nợ công theo hướng giữ nguyên quy định của luật hiện hành. Theo đó, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách (cơ quan thẩm tra dự án luật) Nguyễn Đức Hải cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban thống nhất với nội dung về phạm vi nợ công như Chính phủ trình.
Theo đó, không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp Nhà nước. Trong trường hợp doanh nghiệp không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật.
Có ý kiến thống nhất không đưa nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp Nhà nước vào phạm vi nợ công song cho rằng, việc không trả được nợ nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước có thể ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm của quốc gia và trên thực tế đã có trường hợp Nhà nước phải trả nợ thay. Do đó, đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định nhằm tăng cường quản lý, giảm thiểu rủi ro đối với khoản nợ này.
Ý kiến khác tại cơ quan thẩm tra đề nghị bổ sung vào phạm vi nợ công các khoản nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp Nhà nước vì đây là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nên các khoản nợ này về bản chất, Nhà nước vẫn phải có trách nhiệm trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.
Ông Hải cũng cho biết thêm, có ý kiến đề nghị nghiên cứu, đưa các khoản ứng trước ngân sách Nhà nước, nợ cấp bù chênh lệch lãi suất cho các ngân hàng chính sách, nợ hoàn thuế giá trị gia tăng và nợ bảo hiểm xã hội (những khoản kéo dài qua năm ngân sách) vào nợ công vì đây thực chất là những khoản nợ mà ngân sách sẽ phải bố trí nguồn để trả ở các năm sau nên nếu không tính vào nợ công sẽ dẫn đến những rủi ro, bị động cho quá trình quản lý, điều hành nợ công.
Về quy định không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành, Chính phủ giải thích là theo thông lệ quốc tế, ngân hàng trung ương là độc lập, không nằm trong cơ cấu tổ chức của chính phủ, theo đó các khoản vay của ngân hàng trung ương không kết cấu trong nợ của chính phủ.
Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đặt vấn đề: ở các nước thì ngân hàng Trung ương là độc lập nhưng ở Việt Nam thì Ngân hàng Nhà nước lại trong hệ thống Chính phủ, vậy không tính thì có hợp lý hay không?
Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá - Giáo dục - Thanh thiếu niên và nhi đồng Phan Thanh Bình cho rằng cần làm rõ định nghĩa khu vực công. Nếu Ngân hàng Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước là khu vực công, thì đương nhiên nợ của họ Nhà nước phải trả.
“Nợ của Vinashin thì ai trả? Chính phủ phải trả”, ông Bình nói.
“Nếu cho Vinashin cho phá sản thì Chính phủ chỉ chịu phần Chính phủ bảo lãnh thôi, do chủ quan nên mới xử lý như vừa rồi”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng hồi âm.
Áp lực điều hành
Trả lời câu hỏi của Chủ nhiệm Lê Thị Nga, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng khẳng định những năm gần đây nợ công tăng nhanh trước hết do điều hành.
“Giai đoạn 2011- 2015, kế hoạch tăng trưởng kinh tế là 6,5-7% nhưng thực tế chỉ đạt 5,9% thôi, trong khi vẫn phải đảm bảo các mục tiêu khác như an sinh xã hội, đầu tư hạ tầng giao thông, nên trong thời gian dài bội chi rất cao, chưa kể còn phát hành thêm trái phiếu khoảng 330 ngàn tỷ”, Bộ trưởng phân tích.
Ông Dũng cũng nhấn mạnh giá trị GDP thực tế đều hụt so với dự báo, trong khi điều hành toàn theo kế hoạch, tức là khả năng có hạn nhưng chi tiêu theo nhu cầu. Và như thế thì “nợ công tăng nhanh là đúng”, Bộ trưởng khẳng định.
Vẫn theo Bộ trưởng Dũng, trong giai đoạn 2011- 2013, thời gian huy động vốn quá ngắn, lãi suất quá cao, có khoản vay đến 12 - 13%, nên áp lực trả nợ dồn trả nợ sang 2016 - 2017.
Ông Dũng còn nêu thêm yếu tố khiến nợ công tăng cao là dự toán ODA thấp (17- 18 ngàn tỷ) nhưng năm nào cũng giải ngân cao 50 - 60 ngàn tỷ.
“Như thế thì năm nào mà chả cao, làm sao mà quản chặt được, nếu không nhìn thẳng vào sự thật thì nợ công tăng nhanh, áo lực trả nợ cao là đúng, và không khắc phục được nếu cứ để thế này”, Bộ trưởng nói.
Ông Dũng cũng nhấn mạnh hai chữ “nặng nề” trong điều hành của Bộ khi khả năng dự báo thì không đúng, giá trị GDP toàn thấp hơn, trong khi bội chi thì đã quyết trước.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, lần sửa đổi này, Chính phủ đề xuất bổ sung 3 chương mới quy định về chỉ tiêu an toàn, chiến lược, chương trình và kế hoạch vay, trả nợ công; về quản lý cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ; về đảm bảo khả năng trả nợ công.
Đồng thời, rà soát chỉnh sửa tên chương, bổ sung thêm một số điều tại các chương trên cơ sở luật hóa các quy định tại văn bản dưới luật đã được áp dụng ổn định thời gian qua và tiếp tục đáp ứng được yêu cầu quản lý trong tình hình mới đồng thời để đảm bảo đáp ứng mục tiêu đặt ra đối với xây dựng luật và nhằm giảm thiểu các nội dung cần hướng dẫn
“Nợ của Vinashin thì ai trả?”
Đều khẳng định sự cần thiết phải sửa luật, song Uỷ ban Thường vụ Quốc hội băn khoăn nằm ở ngay phạm vi điều chỉnh.
Dự thảo luật có phạm vi nợ công theo hướng giữ nguyên quy định của luật hiện hành. Theo đó, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách (cơ quan thẩm tra dự án luật) Nguyễn Đức Hải cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban thống nhất với nội dung về phạm vi nợ công như Chính phủ trình.
Theo đó, không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp Nhà nước. Trong trường hợp doanh nghiệp không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật.
Có ý kiến thống nhất không đưa nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp Nhà nước vào phạm vi nợ công song cho rằng, việc không trả được nợ nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước có thể ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm của quốc gia và trên thực tế đã có trường hợp Nhà nước phải trả nợ thay. Do đó, đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định nhằm tăng cường quản lý, giảm thiểu rủi ro đối với khoản nợ này.
Ý kiến khác tại cơ quan thẩm tra đề nghị bổ sung vào phạm vi nợ công các khoản nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp Nhà nước vì đây là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nên các khoản nợ này về bản chất, Nhà nước vẫn phải có trách nhiệm trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.
Ông Hải cũng cho biết thêm, có ý kiến đề nghị nghiên cứu, đưa các khoản ứng trước ngân sách Nhà nước, nợ cấp bù chênh lệch lãi suất cho các ngân hàng chính sách, nợ hoàn thuế giá trị gia tăng và nợ bảo hiểm xã hội (những khoản kéo dài qua năm ngân sách) vào nợ công vì đây thực chất là những khoản nợ mà ngân sách sẽ phải bố trí nguồn để trả ở các năm sau nên nếu không tính vào nợ công sẽ dẫn đến những rủi ro, bị động cho quá trình quản lý, điều hành nợ công.
Về quy định không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành, Chính phủ giải thích là theo thông lệ quốc tế, ngân hàng trung ương là độc lập, không nằm trong cơ cấu tổ chức của chính phủ, theo đó các khoản vay của ngân hàng trung ương không kết cấu trong nợ của chính phủ.
Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đặt vấn đề: ở các nước thì ngân hàng Trung ương là độc lập nhưng ở Việt Nam thì Ngân hàng Nhà nước lại trong hệ thống Chính phủ, vậy không tính thì có hợp lý hay không?
Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá - Giáo dục - Thanh thiếu niên và nhi đồng Phan Thanh Bình cho rằng cần làm rõ định nghĩa khu vực công. Nếu Ngân hàng Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước là khu vực công, thì đương nhiên nợ của họ Nhà nước phải trả.
“Nợ của Vinashin thì ai trả? Chính phủ phải trả”, ông Bình nói.
“Nếu cho Vinashin cho phá sản thì Chính phủ chỉ chịu phần Chính phủ bảo lãnh thôi, do chủ quan nên mới xử lý như vừa rồi”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng hồi âm.
Áp lực điều hành
Trả lời câu hỏi của Chủ nhiệm Lê Thị Nga, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng khẳng định những năm gần đây nợ công tăng nhanh trước hết do điều hành.
“Giai đoạn 2011- 2015, kế hoạch tăng trưởng kinh tế là 6,5-7% nhưng thực tế chỉ đạt 5,9% thôi, trong khi vẫn phải đảm bảo các mục tiêu khác như an sinh xã hội, đầu tư hạ tầng giao thông, nên trong thời gian dài bội chi rất cao, chưa kể còn phát hành thêm trái phiếu khoảng 330 ngàn tỷ”, Bộ trưởng phân tích.
Ông Dũng cũng nhấn mạnh giá trị GDP thực tế đều hụt so với dự báo, trong khi điều hành toàn theo kế hoạch, tức là khả năng có hạn nhưng chi tiêu theo nhu cầu. Và như thế thì “nợ công tăng nhanh là đúng”, Bộ trưởng khẳng định.
Vẫn theo Bộ trưởng Dũng, trong giai đoạn 2011- 2013, thời gian huy động vốn quá ngắn, lãi suất quá cao, có khoản vay đến 12 - 13%, nên áp lực trả nợ dồn trả nợ sang 2016 - 2017.
Ông Dũng còn nêu thêm yếu tố khiến nợ công tăng cao là dự toán ODA thấp (17- 18 ngàn tỷ) nhưng năm nào cũng giải ngân cao 50 - 60 ngàn tỷ.
“Như thế thì năm nào mà chả cao, làm sao mà quản chặt được, nếu không nhìn thẳng vào sự thật thì nợ công tăng nhanh, áo lực trả nợ cao là đúng, và không khắc phục được nếu cứ để thế này”, Bộ trưởng nói.
Ông Dũng cũng nhấn mạnh hai chữ “nặng nề” trong điều hành của Bộ khi khả năng dự báo thì không đúng, giá trị GDP toàn thấp hơn, trong khi bội chi thì đã quyết trước.