09:38 12/05/2007

Được gì khi tự do hóa tài chính?

Nguyễn Hoài

"Nếu các kênh dẫn đầu tư “tiêu hóa” tốt nguồn vốn thì chẳng bao giờ phải lo đến chuyện đánh tháo tiền!"

Từ sau khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, về cơ bản, Việt Nam là nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp là chủ yếu.
Từ sau khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, về cơ bản, Việt Nam là nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp là chủ yếu.
Theo các chuyên gia, tự do hóa tài chính là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ và giao dịch tài chính. Các hoạt động tài chính được tự do thực hiện theo tín hiệu thị trường. Điều này thực sự cần thiết cho mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu vào kinh tế thế giới.

Bởi lẽ, tiềm năng lợi ích của tự do hóa tài chính là rất lớn, nhưng bên cạnh đó là những mặt trái của chúng mà nhiều người vẫn nhìn nhận như là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ, khủng hoảng tài chính như đã từng xảy ra ở Mexico năm 1994 - 1995, Thái Lan và một số nước châu Áá vào năm 1997.

Vì vậy, nhiều quốc gia đều lựa chọn cho mình một lộ trình tự do hóa tài chính theo điều kiện kinh tế - chính trị mỗi nước, nhằm tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất. Để tìm ra bước đi và lộ trình tự do hóa tài chính một cách hiệu quả, tại một diễn đàn gần đây, các chuyên gia đã nêu ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết như: chính sách và phương thức bù đắp thiếu hụt ngân sách, chính sách lãi suất, tín dụng chỉ định, phát triển và sắp xếp lại tổ chức, chính sách tài chính với bên ngoài, sự tham gia của các tổ chức tài chính nước ngoài vào thị trường tài chính nội địa, sự luân chuyển của các dòng vốn...

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc ý kiến của các nhà chuyên môn về vấn đề trên.

Không thể có tài chính tự do hoàn toàn!

(Ông Nguyễn Đại Lai, Phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển, Ngân hàng Nhà nước)

“Tôi cho rằng, tự do hóa tài chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các quyền tham gia thị trường cho các bên tìm kiếm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của pháp luật. Cùng với pháp luật, cần và phải có các công cụ kiểm soát, giám sát khả thi thích ứng để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh tế nói riêng ngày càng phát triển một cách vững chắc và minh bạch.

Và cụm từ “tự do tài chính” bao giờ cũng phải đặt trong mối quan hệ tỷ lệ hay khuôn khổ giới hạn nhất định theo những điều kiện về không gian, thời gian của một nền kinh tế nhất định. Do vậy, các mức độ tự do tài chính xét trong những điều kiện kinh tế, không gian, thời gian khác nhau là không giống nhau...

Điều này cũng được hiểu: không thể có cái gọi là tài chính tự do hoàn toàn ở bất kỳ quốc gia hay tổ chức kinh tế nào! Vì sao tôi nói vậy?

Thứ nhất, nếu chia thị trường tài chính theo chiều dọc thì thị trường tài chính Việt Nam bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường này đã trải qua một quá trình tự do hóa từ những năm cuối thấp kỷ 90 của thế kỷ 20 khi ngành ngân hàng chuyển sang mô hình 2 cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường.

Quá trình đó biểu hiện qua các động thái nới lỏng quan hệ lãi suất từ áp đặt sang trần - sàn, đến khống chế trần và cuối cùng là thỏa thuận cùng với hàng loạt vấn đề khác như nới lỏng tỷ giá, phá bỏ độc quyền Nhà nước trong việc mở ngân hàng thương mại và cung ứng vốn... Và cùng với đó là dòng chảy của vốn từ nơi lợi ích thấp đến nơi có lợi ích cao là lẽ tự nhiên.

Với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán hiện nay, việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại sẽ khó khăn hơn là việc cho vay. Không nghi ngờ gì, dòng chảy vốn sẽ chảy vào nơi kỳ vọng nhiều nhất mà trong đó có cả các dự án của các công ty chứng khoán. Đó là vẻ đẹp về sự giao thoa giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

Tuy nhiên, nếu để các dòng chảy này tự phát phát triển thì nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tài chính “để thị trường tự điều chỉnh theo cách của bàn tay vô hình” là không thể đảm bảo chắc chắn là không xảy ra!

Thứ hai, nếu chia thực trạng vấn đề tự do hóa tài chính theo chiều ngang thì thấy rằng: từ sau khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, về cơ bản, Việt Nam là nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp là chủ yếu. Hiện tại, tổng vốn lũy kế đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đã lên tới 50 tỷ USD, trong đó, chỉ riêng lượng vốn trong vòng một năm qua chiếm tới 40%. Bình quân 10 năm lại đây, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm; sử dụng gần 10% lao động công nghiệp; tham gia hơn 20% tổng đầu tư toàn xã hội bình quân/năm...

Tuy nhiên, qua những diễn biến nóng lạnh trên thị trường chứng khoán thời gian qua, cũng đã cảnh báo cần phải có những giải pháp thận trọng trong quá trình tự do hóa tài khoản vãng lai đến tự do hóa tài khoản vốn.”

Hai vấn đề đảm bảo an ninh tài chính

(Ông Nguyễn Văn Lịch, Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại - Bộ Thương mại)

"Để đảm bảo an ninh tài chính khi tự do hóa hệ thống này, cần chú ý hai vấn đề cơ bản.

Đối với các chính sách kinh tế vĩ mô, vấn đề đầu tiên cần phải xử lý là giảm thiểu nợ xấu, nợ khó đòi của doanh nghiệp nhà nước và nâng cao khả năng cạnh tranh cho khu vực này. Biện pháp hiệu quả trong dài hạn là xóa bỏ dần bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước; phải quản lý tốt, chặt chẽ tỷ lệ, loại hình nợ một cách tương thích.

Kế đến, chính sách tỷ giá tuy đã được điều chỉnh song hiện nay, đồng Việt Nam vẫn bị đánh gia cao, nhất là so với các nước trong khu vực. Điều này đã hạn chế khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và không có lợi cho cán cân thương mại và cán cân vãng lai. Tiếp đó, trong chính sách đầu tư không nên bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu mà khuyến khích đầu tư vào các ngành xuất khẩu.

Còn đối với chính sách thương mại, đầu tiên, cần thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho mở cửa thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO và AFTA. Cụ thể ở đây, chính sách thuế phải minh bạch, từng bước đơn giản hóa hệ thống thuế quan, không nên để quá nhiều mức thuế trong biểu thuế như hiện nay. Cùng với đó, cần đơn giản hóa thủ tục hải quan; đơn giản thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, mở rộng hơn nữa các đối tượng được phép tham gia xuất nhập khẩu.

Thứ hai, khuyến khích, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, từng bước nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu nói chung và hàng công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao nói riêng cũng như hàng công nghệ cao. Đồng thời, tiến tới giảm dần xuất khẩu các loại hàng hóa nguyên liệu thô hay sơ chế. Kinh nghiệm khuyến khích xuất khẩu châu Á cho thấy, cần khuyến khích phát triển tất cả mọi ngành xuất khẩu có lợi thế so sánh chứ không nên lựa chọn một số ngành nào đó.”

Ngân hàng chịu áp lực khi mở cửa thị trường tài chính

(Ths. Nguyễn Quang Minh, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank)

“Mặc dù đã có một quá trình hoàn thiện sửa đổi chính sách ngân hàng cho phù hợp với thông lệ quốc tế và những cam kết hội nhập nhưng hiện tại, hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ và có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Chẳng hạn, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện lộ trình tự do hoá lãi suất một cách thận trọng và linh hoạt, tiến tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất vào tháng 05/2002 với việc ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng, lãi suất hình thành trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường.

Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự ban hành năm 2005 có quy định lãi suất cho vay trong các hợp đồng vay tài sản do các bên thoả thuận, nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (tương đương tối đa 12,375%/năm). Quy định này vô hình chung đã áp đặt một mức “trần” lãi suất cho vay mới, đi ngược lại xu thế tự do hoá lãi suất và gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại.

Hoặc việc các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam bị hạn chế huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ thể nhân (hiện chỉ được huy động tối đa 650% vốn pháp định được cấp). Thách thức tiếp theo là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng nước ngoài với các ngân hàng thương mại trong nước khi thực hiện các cam kết mở cửa. Mặt khác, các định chế tài chính nước ngoài cũng được hưởng các chế độ đãi ngộ quốc gia giống như các ngân hàng trong nước.

Cùng với đó, theo những nghĩa vụ bắt buộc trong quy định của GATS, hệ thống các ngân hàng thương mại trong nước phải đáp ứng các yêu cầu về minh bạch hoá, áp dụng các chuẩn mực an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, trích lập dự phòng rủi ro, tiêu chuẩn phân loại nợ”...

Tham khảo yếu tố Trung Quốc

(Ông Phí Đăng Minh, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối - Ngân hàng Nhà nước)

“Trung Quốc thực hiện cải cách tài chính ngay từ những năm 70 của thế kỷ 20, bắt đầu từ việc tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngoại thương và những cải cách hệ thống ngân hàng cùng với các định chế tài chính.

Như nhiều nước bắt đầu chuyển đổi mô hình kinh tế, thực trạng các định chế tài chính của Trung Quốc tồn tại khá nhiều hạn chế: hệ thống ngân hàng chịu rất ít áp lực cạnh tranh, sự độc quyền thuộc về bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, cung cấp tới 60% vốn cho tất cả các doanh nghiệp.

Hầu hết, các khoản vay đều dành cho doanh nghiệp Nhà nước và những doanh nghiệp này đều hoạt động không hiệu quả. Bên cạnh đó, nợ xấu trong ngân hàng luôn trong tình trạng báo động, hình thức kinh doanh chủ yếu chỉ có nhận tiền gửi và cho vay, 90% thu nhập từ ngân hàng là từ lãi suất, thu nhập từ phí rất ít...

Ở một bình diện khác trên thị trường vốn, mặc dù Trung Quốc cho phép thành lập quỹ đầu tư từ 1998 nhưng vai trò của chúng rất mờ nhạt, nắm giữ chưa đến 10% vốn thị trường chứng khoán và đang mất tín nhiệm với công chúng. Trong khi đó, các quỹ bảo hiểm và lương hưu tuy đã được thành lập nhưng chưa được phép đầu tư vào cổ phiếu, bị hạn chế trong việc mua trái phiếu công ty.

Các định chế tài chính nước ngoài bao gồm các công ty chứng khoán, ngân hàng và công ty quỹ nước ngoài chỉ được tham gia vào thị trường vốn ở mức độ hạn chế: chỉ được đầu tư vào cổ phiếu loại B với tỷ lệ không quá 10% cổ phiếu trên thị trường; không được đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.

Trước thực trạng này, Trung Quốc đã lựa chọn các biện pháp cải cách thị trường tài chính rất thận trọng, tránh rủi ro theo một lộ trình với thời gian rất lâu dài. Từ 1970 đến 1998, Trung Quốc củng cố khung pháp lý về hoạt động ngân hàng với việc ban hành bốn bộ luật ngân hàng. Song song, Trung Quốc cũng thành lập ủy ban điều tiết chứng khoán, thực hiện thống nhất tỷ giá hối đoái, thành lập các ngân hàng ngoài quốc doanh.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 - 1998, Trung Quốc thực thi một loạt biện pháp sau: các ngân hàng không được tham gia chứng khoán; ủy ban điều tiết chứng khoán trở thành cơ quan hoạt động độc lập thuộc Hội đồng Nhà nước; thành lập các công ty quản lý quỹ; thông qua luật chứng khoán; tổ chức lại ngân hàng trung ương theo mô hình ngân hàng trung ương hiện đại; từng bước giải quyết nợ xấu trong các ngân hàng thương mại; ban hành các quy định về quản lý giao dịch vốn và quy định về quản lý các tổ chức nước ngoài đủ tiêu chuẩn đầu tư chứng khoán.

Trình tự mở cửa thị trường tài chính của Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự yếu kém của hệ thống tài chính, ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và thực hiện tự do hóa thận trọng, với những bước đi rất cụ thể.

Đầu tiên, Trung Quốc giải quyết nợ xấu để giảm rủi ro cho các ngân hàng; xây dựng thể chế để có một hệ thống luật pháp công khai và minh bạch; từng bước tự do hóa tài chính nội địa; từng bước tự do hóa lãi suất; tổ chức lại ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài để tăng khả năng cạnh tranh; thực hiện một cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn; giải quyết các khó khăn về tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp song vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh quốc tế.

Tiếp đó, Trung Quốc thực hiện tự do hóa tài khoản vốn và coi đó là mục tiêu cuối cùng của mở cửa thị trường tài chính. Cho đến nay, Trung Quốc cho rằng, vẫn chưa có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện tự do hóa tài khoản vốn.

Vì vậy, đối với tài khoản vốn, nguyên tắc cơ bản của Trung Quốc là mở cửa có giới hạn, các dự án sử dụng vốn nước ngoài và đầu tư bằng vốn nước ngoài đều được thẩm tra, đặc biệt nhấn mạnh giám sát chặt chẽ chu chuyển của dòng vốn ngắn hạn, bao gồm các giao dịch vốn trên thị trường chứng khoán và hạn chế việc chuyển vốn ngoại hối ra nước ngoài.”

Những nguy cơ khi tự do hóa tài chính và cách phòng chống

(Ông Vũ Đình Ánh, Viện Khoa học tài chính - Bộ Tài chính)

“Không phủ nhận những lợi ích lớn thu được khi tự do hóa tài chính nhưng quá trình này cũng có những mặt trái của nó.

Đó là: dễ gây ra khủng hoảng tài chính nếu tự do hóa tài chính không được tiến hành theo những bước hợp lý và thiếu đồng bộ với những chính sách vĩ mô khác; thị trường tài chính trong nước có thể bị thao túng bởi các thế lực bên ngoài, Chính phủ dễ mất quyền điều tiết thị trường đặc biệt quan trọng này nhằm thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.

Theo một chuyên gia tài chính, tựu trung lại, có thể có một số nguy cơ mà tự do hóa tài chính có thể tạo ra.

Thứ nhất, nguy cơ tiền tệ hay đúng hơn là nguy cơ mất giá nội tệ do chính sách tỷ giá hối đoái không hợp lý và nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng chuyển vốn ra nước ngoài. Biện pháp đối phó với tình huống này là phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ như trường hợp của Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore trong đợt khủng hoảng tài chính vừa qua.

Thứ hai, nguy cơ tiền tháo chạy do thiếu các biện pháp kiểm soát dòng vốn ngắn hạn. Để đối phó với các nguy cơ này, có thể tham khảo một số kinh nghiệm của các nước như Chile: nhà đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp phải giữ tiền mặt trong nước tối thiểu một năm và từ tháng 9/1998, các nhà đầu tư tài chính nước ngoài phải đóng một loại thuế dưới dạng nộp vào quỹ dự trữ 30% tổng số tiền cho vay nhưng không được hưởng lợi tức. Đồng thời, đánh thuế 1,2% trên toàn bộ vốn đưa vào không kể thời hạn. Ngoài ra, việc hạn chế đổi ngoại tệ cũng góp phần ngăn chặn nguy cơ tiền tháo chạy.

Thứ ba, đó là nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn như trường hợp của Thái Lan vừa qua. Nguy cơ này càng nghiêm trọng khi xảy ra biến động tỷ giá hối đoái, giá bất động sản, đặc biệt là biến động giá trị của tài sản thế chấp vay ngân hàng và giá chứng khoán.

Để “hóa giải” nguy cơ này, Chính phủ phải có hệ thống giám sát tài chính hiệu quả, nhằm ngăn chặn những khoản đầu tư quá nhiều rủi ro. Ngoài ra, có thể sử dụng một số biện pháp hạn chế chuyển đổi tiền tệ và kiểm soát chặt các luồng vốn ngắn hạn từ bên ngoài.

Thứ tư, nguy cơ mất chủ quyền là vấn đề mà quốc gia nào cũng lo ngại khi tự do hóa tài chính. Bởi khi xảy ra biến cố, Chính phủ buộc phải hy sinh một số mục tiêu kinh tế xã hội, xiết chặt ngân sách, giảm các chỉ tiêu tăng trưởng và chương trình xã hội, chấp nhận trợ giúp nước ngoài”...

Khơi thông tốt kênh đầu tư, không lo tiền tháo chạy!

(Ông Nguyễn Đức Hiếu, Ủy viên HĐQT Công ty Cổ phần Chứng khoán Quốc tế Việt Nam - Visecurities)

“Nhiều người e ngại, khi thực hiện tự do hóa tài chính, sẽ đối mặt với không ít rủi ro, nhất là rủi ro đánh tháo tiền từng xảy ra ở Thái Lan năm 1997.

Tuy nhiên, tôi lại có một cách nhìn khác: nếu dòng vốn chảy vào môi trường đầu tư hiệu quả, các kênh dẫn đầu tư “tiêu hóa” tốt nguồn vốn thì chẳng bao giờ phải lo đến chuyện đánh tháo tiền! Bởi ai cũng biết, luồng tiền vào - ra đều có mục đích: săn tìm lợi nhuận và bảo toàn đồng vốn.

Nhiều người nói, nền kinh tế Việt Nam hiện đang tăng trưởng và vẫn duy trì được đà tăng trưởng trong nhiều năm tiếp theo. Như vậy, điều này sẽ rất hấp dẫn các luồng vốn của các nhà đầu tư. Cùng với đó, do áp lực tăng trưởng cao nên nền kinh tế cũng rất cần vốn.

Chúng ta còn nhớ, năm 2005, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra chậm chạp và khó khăn. Hàng loạt dự án lớn như Thủy điện sông Hinh, Phả Lại..., phát hành cổ phiếu ra ngoài nhưng mức giá và số lượng phát hành không cao. Nhưng khi các nhà đầu tư nhìn thấy cơ hội và đầu tư vào đây thì lượng cung tiền nhiều hơn, dẫn đến tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra với tốc độ nhanh hơn.

Một thực tế khác, cách đây 1 năm, các ngân hàng thường đua nhau tăng lãi suất để hút vốn nhưng nửa năm gần đây, các ngân hàng thương mại nói với nhau rằng, họ đang dư vốn! Không chỉ có ngân hàng, việc phát hành cổ phiếu tăng vốn, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn.

Như vậy, bức tranh đầu tư của nền kinh tế đang được lợi. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây không còn là chuyện vốn mà là chuyện “tiêu hóa” vốn như thế nào và yêu cầu không để nền kinh tế bội thực về vốn trở nên vô cùng bức thiết.

Có một thực tế, khi nguồn vốn dồi dào, doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh vô cùng quyết liệt để giành lấy từng cơ hội đầu tư. Điều này sẽ dẫn tới chi phí sản xuất tăng, trong khi đó, cung vốn vẫn tiếp tục tăng và nguồn vốn ứ đọng là đương nhiên.

Có thể thấy rất rõ điều này qua “hàn thử biểu” lãi suất ngân hàng và lãi suất trái phiếu. Năm 2006, lãi suất trái phiếu kho bạc là 8,75%/năm nhưng nay đã giảm xuống 7,15%. Thực tế này cho thấy, nếu không có kênh đầu tư hiệu quả để giải thoát sự ứ đọng của vốn thì cung vốn sẽ giảm và hệ thống tài chính sẽ vô cùng nguy hiểm nếu gặp phải những cú sốc tài chính bên ngoài.

Dĩ nhiên, trách nhiệm này trước hết thuộc về doanh nghiệp đang sở hữu nguồn vốn và sau đó là trách nhiệm của các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô, nhất là cơ quan quản lý hệ thống tài chính.”