Kiềm chế lạm phát có quá "sốc"?
Biện pháp thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát đã và đang làm cho thị trường chứng khoán sụt giảm
Kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành ngay một lúc tới 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, không được vay tái cấp vốn, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, thì dư luận đang hết sức quan tâm và đặt câu hỏi biện pháp đó có "quá liều" không và gây ra tác động vượt quá sự mong đợi như thế nào?
Ngay từ đầu tuần này cho đến nay, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã có phản ứng tức thì, nhạy cảm tới biện pháp mạnh tay và cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, đó là thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ hết sức nóng. Tuy nhiên chỉ số giá có giảm và thị trường bất động sản có nguội đi hay không thì còn phải chờ.
Chứng khoán "đỏ rực"
Đối với thị trường chứng khoán, liên tục trong 4 ngày qua cả Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE) và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) nối tiếp nhau liên tiếp đỏ sàn.
Tại HOSE, chỉ số VN-Index giảm tới 33,46 điểm, xuống còn 782,57 điểm. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ sau Tết Nguyên đán Mậu Tý đến nay.
Đến ngày 19/2/2008 VN-Index lại giảm tiếp 5,78 điểm, xuống còn 776,70 điểm; ngày 20/2/2008 giảm tiếp 31,87 điểm, xuống còn 744,92 điểm, phá vỡ kỷ lục giảm thấp của thị trường đã lập thời điểm cuối tháng 1/2008. Ngày 21/2/2008, VN-Index lại có mức giảm kỷ lục lớn hơn, giảm tới 34,47 điểm, xuống còn 710,45 điểm.
Tại HASTC, chỉ số HaSTC-Index trong ngày 18/2/2008 cũng giảm 12,38 điểm và ngày 19/2/2008 giảm tiếp 1,51 điểm, xuống còn 268,19 điểm; ngày 20/2/2008 giảm tiếp 11,02 điểm, xuống còn 257,17 điểm; ngày 21/2/2008 giảm thêm mức kỷ lục mới, tới 19,28 điểm, xuống còn 237,89 điểm. Đây là mức thấp nhất trong hơn 1 năm qua.
Trên thị trường OTC giá hàng loạt cổ phiếu chưa niêm yết cũng giảm thấp và giao dịch hết sức trầm lắng. Giá một số loại cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần loại khá, thuộc nhóm cổ phiếu được coi là bue-chip, giảm xuống chỉ còn 31.000 đồng đến 40.000 đồng/cổ phàn, giảm tới hơn 2/3; hay giảm tới 70% so với mức giá cách đây vừa tròn 1 năm.
Trên thị trường tiền tệ các ngân hàng thương mại liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Ngày 20/2/2008, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á (SeaBank) công bố biểu lãi suất mới được coi như "một quả bom" dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình cũng tăng cao lãi suất nhưng chủ yếu ở kỳ hạn ngắn: 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần...
Ngân hàng bối rối
Vậy tại sao biện pháp kiềm chế lạm phát của Ngân hàng Nhà nước lại bị coi là “quá liều”? Bởi vì chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại phải thực hiện một loạt quyết định bị coi là "gây sốc".
Để chủ động có đủ vốn mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc vào thời điểm 17/3/2008 thì ngay từ bây giờ các ngân hàng thương mại phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, bởi vì muốn có đủ 20.300 tỷ đồng mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước thì phải huy động ít nhất là 23.000 tỷ đồng vì phải nộp dự trữ bắt buộc 11%.
Bên cạnh đó, từ đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại phải nộp thêm gần 10.000 tỷ đồng dự trữ bắt buộc. Ngoài ra các nhà đầu tư còn phải lo gần 10.000 tỷ đồng mua cổ phiếu IPO của Vietcombank. Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn, thử hỏi thị trường tiền tệ lấy đâu ra gần 50.000 tỷ đồng chui vào kho ngân hàng?
Nếu như hai biện pháp nói trên được kéo giãn ra trong 2-3 tháng thì tình hình đỡ căng thẳng hơn. Không chỉ như vậy, phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này Ngân hàng Nhà nước nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các ngân hàng thương mại khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại Ngân hàng Nhà nước.
Thực tế hiện nay một số ngân hàng đã hạn chế cho vay, tập trung thu nợ. Một số ngân hàng thương mại chỉ cho khách hàng truyền thống, cho dự án tốt vay vốn, còn không cho vay đối với khách hàng mới. Thậm chí có trường hợp chào lãi suất cho vay lên tới 2,0%/tháng.
Thị trường chứng khoán đã phản ứng tiêu cực với Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Bởi vì Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây.
Đến nay các nguồn vốn khác đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng bị chặn lại. Đó là nghiệp vụ repo và cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố chứng khoán... của các công ty chứng khoán đối với khách hàng. Bởi vì với Chỉ thị 03 và Quyết định 03, nguồn vốn vay ngân hàng đầu tư vào chứng khoán chặn lại thì còn có cửa ngách khác đó là công ty chứng khoán. Song nguồn vốn để cho vay của các công ty chứng khoán là lại được tài trợ bởi ngân hàng thương mại.
Nhưng nay do tình hình thị trường tiền tệ nóng lên, tiền VND khan hiếm, thanh khoản căng thẳng, nên các ngân hàng thương mại cũng hạn chế, thậm chí là tạm dừng hỗ trợ vốn cho các công ty chứng khoán theo hợp đồng cam kết trước đây, nên các công ty chứng khoán không còn tìm đâu ra nguồn vốn để cho khách hàng của mình thực hiện nghiệp vụ Repo, cầm cố để đầu tư chứng khoán.
Cũng do chính sách tiền tệ thắt chặt nên nguồn vốn ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam rất khó chuyển sang VND vì Ngân hàng Nhà nước không mua vào hay hạn chế mua vào, tỷ giá VND/USD liên tục xuống thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng thiếu vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Do đó biện pháp thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát đã và đang làm cho thị trường chứng khoán sụt giảm chứ không phải "cứu thị trường chứng khoán" như mong đợi của các nhà điều hành chính sách.
Ngay từ đầu tuần này cho đến nay, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã có phản ứng tức thì, nhạy cảm tới biện pháp mạnh tay và cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, đó là thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ hết sức nóng. Tuy nhiên chỉ số giá có giảm và thị trường bất động sản có nguội đi hay không thì còn phải chờ.
Chứng khoán "đỏ rực"
Đối với thị trường chứng khoán, liên tục trong 4 ngày qua cả Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE) và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) nối tiếp nhau liên tiếp đỏ sàn.
Tại HOSE, chỉ số VN-Index giảm tới 33,46 điểm, xuống còn 782,57 điểm. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ sau Tết Nguyên đán Mậu Tý đến nay.
Đến ngày 19/2/2008 VN-Index lại giảm tiếp 5,78 điểm, xuống còn 776,70 điểm; ngày 20/2/2008 giảm tiếp 31,87 điểm, xuống còn 744,92 điểm, phá vỡ kỷ lục giảm thấp của thị trường đã lập thời điểm cuối tháng 1/2008. Ngày 21/2/2008, VN-Index lại có mức giảm kỷ lục lớn hơn, giảm tới 34,47 điểm, xuống còn 710,45 điểm.
Tại HASTC, chỉ số HaSTC-Index trong ngày 18/2/2008 cũng giảm 12,38 điểm và ngày 19/2/2008 giảm tiếp 1,51 điểm, xuống còn 268,19 điểm; ngày 20/2/2008 giảm tiếp 11,02 điểm, xuống còn 257,17 điểm; ngày 21/2/2008 giảm thêm mức kỷ lục mới, tới 19,28 điểm, xuống còn 237,89 điểm. Đây là mức thấp nhất trong hơn 1 năm qua.
Trên thị trường OTC giá hàng loạt cổ phiếu chưa niêm yết cũng giảm thấp và giao dịch hết sức trầm lắng. Giá một số loại cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần loại khá, thuộc nhóm cổ phiếu được coi là bue-chip, giảm xuống chỉ còn 31.000 đồng đến 40.000 đồng/cổ phàn, giảm tới hơn 2/3; hay giảm tới 70% so với mức giá cách đây vừa tròn 1 năm.
Trên thị trường tiền tệ các ngân hàng thương mại liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Ngày 20/2/2008, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á (SeaBank) công bố biểu lãi suất mới được coi như "một quả bom" dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình cũng tăng cao lãi suất nhưng chủ yếu ở kỳ hạn ngắn: 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần...
Ngân hàng bối rối
Vậy tại sao biện pháp kiềm chế lạm phát của Ngân hàng Nhà nước lại bị coi là “quá liều”? Bởi vì chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại phải thực hiện một loạt quyết định bị coi là "gây sốc".
Để chủ động có đủ vốn mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc vào thời điểm 17/3/2008 thì ngay từ bây giờ các ngân hàng thương mại phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, bởi vì muốn có đủ 20.300 tỷ đồng mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước thì phải huy động ít nhất là 23.000 tỷ đồng vì phải nộp dự trữ bắt buộc 11%.
Bên cạnh đó, từ đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại phải nộp thêm gần 10.000 tỷ đồng dự trữ bắt buộc. Ngoài ra các nhà đầu tư còn phải lo gần 10.000 tỷ đồng mua cổ phiếu IPO của Vietcombank. Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn, thử hỏi thị trường tiền tệ lấy đâu ra gần 50.000 tỷ đồng chui vào kho ngân hàng?
Nếu như hai biện pháp nói trên được kéo giãn ra trong 2-3 tháng thì tình hình đỡ căng thẳng hơn. Không chỉ như vậy, phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này Ngân hàng Nhà nước nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các ngân hàng thương mại khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại Ngân hàng Nhà nước.
Thực tế hiện nay một số ngân hàng đã hạn chế cho vay, tập trung thu nợ. Một số ngân hàng thương mại chỉ cho khách hàng truyền thống, cho dự án tốt vay vốn, còn không cho vay đối với khách hàng mới. Thậm chí có trường hợp chào lãi suất cho vay lên tới 2,0%/tháng.
Thị trường chứng khoán đã phản ứng tiêu cực với Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Bởi vì Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây.
Đến nay các nguồn vốn khác đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng bị chặn lại. Đó là nghiệp vụ repo và cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố chứng khoán... của các công ty chứng khoán đối với khách hàng. Bởi vì với Chỉ thị 03 và Quyết định 03, nguồn vốn vay ngân hàng đầu tư vào chứng khoán chặn lại thì còn có cửa ngách khác đó là công ty chứng khoán. Song nguồn vốn để cho vay của các công ty chứng khoán là lại được tài trợ bởi ngân hàng thương mại.
Nhưng nay do tình hình thị trường tiền tệ nóng lên, tiền VND khan hiếm, thanh khoản căng thẳng, nên các ngân hàng thương mại cũng hạn chế, thậm chí là tạm dừng hỗ trợ vốn cho các công ty chứng khoán theo hợp đồng cam kết trước đây, nên các công ty chứng khoán không còn tìm đâu ra nguồn vốn để cho khách hàng của mình thực hiện nghiệp vụ Repo, cầm cố để đầu tư chứng khoán.
Cũng do chính sách tiền tệ thắt chặt nên nguồn vốn ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam rất khó chuyển sang VND vì Ngân hàng Nhà nước không mua vào hay hạn chế mua vào, tỷ giá VND/USD liên tục xuống thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng thiếu vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Do đó biện pháp thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát đã và đang làm cho thị trường chứng khoán sụt giảm chứ không phải "cứu thị trường chứng khoán" như mong đợi của các nhà điều hành chính sách.