Mười năm nhìn lại thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Một bộ phận doanh nhân trẻ đang chịu ảnh hưởng ngày càng nhiều từ "văn hoá kinh doanh Mỹ", "phong cách kinh doanh Mỹ"
Thời gian trôi thật nhanh, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tròn mười tuổi. Mười năm trong lịch sử chỉ là một khoảnh khắc.
Những tác động của một cam kết quốc tế đồ sộ như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ mười năm chưa đủ để ngấm thấm đến điểm cùng, chưa thể tính sổ hết được cái lợi, cái hại, cái được, cái chưa được... Nhưng mười năm là khoảng thời gian đủ để có thể nhận diện được những nét cơ bản, đủ để cho những cái tốt, cái chưa tốt có thể hiển thị.
Lợi ích từ Hiệp định
Thứ nhất, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trước hết là một sự kiện góp phần hoàn tất quá trình bình thường hóa quan hệ, thực hiện quan hệ đầy đủ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Từ nay, lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm của mình, Việt Nam có quan hệ bình thường và bình đẳng với tất cả các quốc gia trên thế giới, với tất cả các nước lớn, cả trên vũ đài chính trị, cả trên thương trường. Riêng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, hiệp định thương mại song phương tạo điều kiện cho quan hệ kinh tế thương mại phát triển. Chính lợi ích trong quan hệ đó đã thúc đẩy nhiều quan hệ khác phát triển và mở rộng. Lợi ích kinh tế thương mại đã tạo ra nhu cầu giao lưu giữa hai nước ngày càng lớn, từ đó làm cho hai nước hiểu nhau hơn, tin cậy nhau hơn và thấy cần hợp tác với nhau nhiều hơn. Hiện giữa hai nước đang có nhiều chương trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển. Trong lĩnh vực kinh tế, 10 năm qua là 10 năm kinh tế Việt Nam phát triển tốt đẹp. Trong bước phát triển đó có sự đóng góp không nhỏ của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Sự đóng góp này được thể hiện từ nhiều góc độ và nhiều lĩnh vực khác nhau.
Từ khi có Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, các tiêu chuẩn, các chuẩn mực đó là những quy định trong WTO đã được cả thế giới thừa nhận và tuân thủ. Và trên cơ sở kết quả cuộc tổng rà soát năm 2001, trong nhiệm kỳ 2001-2005, Quốc hội nước ta đã riết ráo vừa ban hành luật mới, vừa sửa đổi các luật cũ, và một loạt các luật quan trọng đã được ban hành, sửa đổi như Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Luật Dân sự, Luật Hình sự, các Luật Thuế, Luật Hải quan, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Lao động... Hệ thống pháp luật không phân biệt đối xử đang cho phép chúng ta huy động mọi tiềm lực xã hội để phát triển.
Đến hôm nay, có thể nói về cơ bản (chỉ mới là cơ bản), hệ thống luật của Việt Nam đã khớp với luật lệ của WTO. Vấn đề hôm nay là phải khẩn trương tháo gỡ những khúc mắc trong khâu thực thi pháp luật. Đó là thành công lớn nhất của Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và hội nhập kinh tế.
Trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, ta cam kết bảo đảm hệ thống pháp luật công khai, minh bạch và bảo đảm để các thành viên trong xã hội tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách, quy chế. Cùng với quá trình đổi mới tư duy trong xã hội Việt Nam. Cùng với sự phát triển mau lẹ của phương tiện Internet, công nghệ thông tin, nhận thức và ý thức làm chủ của dân ta ngày càng cao, thông tin ngày càng phong phú, hiểu biết ngày càng rộng, do đó sự tham gia của dân ngày càng rộng rãi, ngày càng có chất lượng vào quá trình xây dựng pháp luật, đường lối chính sách, vào quá trình điều hành, quản lý kinh tế, xã hội bằng các phương tiện và hình thức khác nhau.
Hình thành đội ngũ doanh nhân Việt Nam
Chưa bao giờ ở Việt Nam có đội ngũ doanh nhân đông đảo như hôm nay. Những quy định trong các văn bản pháp luật mới sửa đổi của Việt Nam bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp ở những lĩnh vực, những ngành nghề, những nơi mà luật không cấm. Pháp luật bảo vệ quyền kinh doanh đúng luật của doanh nghiệp. Người giỏi được xã hội và nhà nước tôn vinh, khuyến khích. Thị trường trong nước mở cửa, thị trường nước ngoài thông thoáng là cơ hội để các doanh nghiệp tung hoành, bươn chải và trưởng thành.
So với thế giới thì doanh nghiệp chúng ta còn phải học hỏi và cố gắng nhiều, nhưng so với 10 năm trước đây thì đất nước ta đã có một đội ngũ doanh nghiệp hoàn toàn khác hẳn.
Trong quá trình trưởng thành của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, có một hiện tượng không khó phát hiện, đó là một bộ phận doanh nhân trẻ đang chịu ảnh hưởng ngày càng nhiều từ "văn hoá kinh doanh Mỹ", "phong cách kinh doanh Mỹ".
Các doanh nhân Việt Nam, trước hết là các doanh nhân trẻ, có xu hướng lao tới học cách kinh doanh của người Mỹ, học cách quản lý kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp Mỹ. Họ cũng liên tục đi Mỹ tham quan, khảo sát, học hỏi, tìm cơ hội kinh doanh. Họ nhìn thấy được điều họ muốn, họ cần: thị trường Mỹ là thị trường năng động, thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp Mỹ là doanh nghiệp năng động, là doanh nghiệp luôn biết sống với các ý tưởng, luôn biết cách nối tiếp các chuỗi giá trị toàn cầu. Họ hiểu rằng đã chơi được với Mỹ thì có thể chơi được với bất cứ thị trường nào!
Sự ảnh hưởng này (có cả ảnh hưởng tốt, cả ảnh hưởng không tốt) còn tiếp tục sâu rộng, khi hiện tại những thanh niên ưu tú, những học sinh thông minh học giỏi, có điều kiện, phần lớn đang hướng tới các trường đại học Mỹ để tìm tri thức. Mới chỉ hơn 10 năm mà hôm nay Việt Nam đã được xếp hạng thứ 10 trong danh sách những quốc gia có nhiều lưu học sinh nhất ở Mỹ. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực, đội ngũ được đào tạo này sẽ bổ sung thêm cho đất nước những doanh nhân giỏi, những cán bộ kỹ thuật có trình độ cao, những nhà quản lý tài năng.
Tạo điều kiện tăng xuất khẩu của Việt Nam
Nhờ có hiệp định thương mại, nhờ được hưởng quy chế tối huệ quốc, xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh với khối lượng lớn chưa từng có với bất cứ thị trường nào trong lịch sử ngoại thương Việt Nam. Tăng nhanh hơn cả sự tưởng tượng của những người lạc quan nhất.
Nếu như năm 2000, xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Mỹ có khoảng hơn 400 triệu USD thì năm 2009 nó đã đạt con số gần 13 tỷ USD, và nếu năm 2000 xuất khẩu Hoa Kỳ vào Việt Nam khoảng vài trăm triệu USD thì năm 2009 là trên 3 tỷ USD (nguồn: số liệu Hải quan Hoa Kỳ năm 2009). Những năm gần đây xuất siêu của Việt Nam vào Hoa Kỳ luôn ở mức trên dưới 10 tỷ USD, góp phần bù đắp sự thiếu hụt trong cán cân thương mại luôn nhập siêu lớn từ các nước châu Á láng giềng.
Từ chỗ chưa có gì đáng kể, nhưng trong 10 năm, Việt Nam đã vượt lên xếp thứ 26 trong số 30 quốc gia xuất khẩu hàng tiêu dùng lớn nhất vào thị trường Hoa Kỳ. Những hàng hoá đã vào được thị trường Mỹ thì có đủ trình độ, có thể vào bất cứ thị trường nào trên thế giới. Và như vậy xuất khẩu Việt Nam nói chung tăng nhanh. Trong sự tăng trưởng nhanh chóng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phải nhắc đến một số mặt hàng tăng nhiều, tăng nhanh.
Hàng dệt may: Từ vài ba chục triệu USD trước lúc ký Hiệp định thương mại, đến năm 2009 xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ đạt 5 tỷ 340 triệu USD. Trên thị trường Hoa Kỳ rộng lớn, hàng dệt may của Việt Nam chỉ kém hàng Trung Quốc. Mới chỉ có hơn 10 năm mà chúng ta đã vượt cả những bạn hàng dệt may quen thuộc hàng thế kỷ của thị trường Hoa Kỳ như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia...
Mặt hàng giày dép: Từ con số vài chục triệu USD trước lúc ký Hiệp định thương mại, năm 2009 Việt Nam đã xuất vào thị trường Mỹ 1,5 tỷ USD. Tuy còn kém xa Trung Quốc (chỉ bằng khoảng 10% hàng Trung Quốc), nhưng chúng ta đã vượt xa các nhà nhập khẩu truyền thống của thị trường Hoa Kỳ như Italia, Ấn Độ, Indonesia...
Trong số những mặt hàng xuất khẩu mới phải nhắc đến đồ gỗ và đồ nội thất: Trước hiệp định thương mại, mặt hàng này chưa có trong danh mục xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ, năm 2009 chúng ta đã xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 1,4 tỷ USD, vượt cả các bạn hàng mạnh về lĩnh vực này như Malaysia, Đài Loan, Indonesia, Italia... Việc tăng xuất khẩu vào Hoa Kỳ đã giúp chúng ta giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.
Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam. Một số ngành kinh tế mới đang hình thành và phát triển như ngành sản xuất đồ gỗ, đồ nhựa, dây điện, cáp điện... và giúp cho nhiều ngành tăng trưởng nhanh chóng hơn như ngành nông sản, thủy hải sản, du lịch... Tuy nhiên 10 năm qua, nếu chúng ta khôn hơn, giỏi hơn, làm ăn có bài bản hơn thì những thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu, cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã tốt hơn nhiều.
Tạo điều kiện cho đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam
Việt Nam chưa ký với bất kỳ quốc gia nào một hiệp định thương mại mà lại có cả chương "Phát triển quan hệ đầu tư" dài như thế, cụ thể như thế trong hiệp định với Hoa Kỳ.
Khi ký hiệp định thương mại song phương, Việt Nam có nhiều kỳ vọng về nguồn đầu tư từ Hoa Kỳ. Mười năm qua chúng ta hiểu Mỹ hơn và nhận ra rằng những kỳ vọng của chúng ta không phải là không có cơ sở. Mặc dù đến hôm nay, theo số liệu thống kê, số vốn đầu tư FDI đăng ký từ Hoa Kỳ vào Việt Nam xếp hàng thứ 6 sau các nước láng giềng châu Á.
Theo cách tính của các quan chức Hoa Kỳ, tức là cộng với số vốn đầu tư của các công ty Hoa Kỳ từ nước thứ 3 vào, thì Hoa Kỳ xếp thứ 3 trong danh sách các nước đầu tư vào Việt Nam. Có điều mới xuất hiện là năm 2009, Hoa Kỳ vượt lên đứng đầu danh sách đầu tư FDI trong năm 2009 vào Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đã sở hữu 65% số trái phiếu quốc tế của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài khác cũng đã vào Việt Nam khai thác nguồn nhân lực rẻ và tài nguyên của Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Rõ ràng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam chưa nhiều, chưa nhanh như ta mong đợi cả về số lượng, cả về cơ cấu. Ngoài một số dự án lớn của các tập đoàn như Intel, Ford... các tập đoàn hùng mạnh trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của Hoa Kỳ chỉ mới vào khảo sát thăm dò, thử nghiệm, "xếp gạch" giữ chỗ...
Những cái Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đem lại cho Việt Nam còn có thể kể nhiều và ở trong nhiều lĩnh vực. Những mặt tiêu cực từ thị trường này mang đến Việt Nam cũng thấy được. Đặc biệt là "văn hoá Mỹ" đang ảnh hưởng đến bản sắc văn hoá của dân tộc Việt bằng nhiều phương tiện khác nhau, cũng là điều rất đáng lưu tâm.
* Tác giả bài viết là nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Những tác động của một cam kết quốc tế đồ sộ như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ mười năm chưa đủ để ngấm thấm đến điểm cùng, chưa thể tính sổ hết được cái lợi, cái hại, cái được, cái chưa được... Nhưng mười năm là khoảng thời gian đủ để có thể nhận diện được những nét cơ bản, đủ để cho những cái tốt, cái chưa tốt có thể hiển thị.
Lợi ích từ Hiệp định
Thứ nhất, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trước hết là một sự kiện góp phần hoàn tất quá trình bình thường hóa quan hệ, thực hiện quan hệ đầy đủ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Từ nay, lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm của mình, Việt Nam có quan hệ bình thường và bình đẳng với tất cả các quốc gia trên thế giới, với tất cả các nước lớn, cả trên vũ đài chính trị, cả trên thương trường. Riêng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, hiệp định thương mại song phương tạo điều kiện cho quan hệ kinh tế thương mại phát triển. Chính lợi ích trong quan hệ đó đã thúc đẩy nhiều quan hệ khác phát triển và mở rộng. Lợi ích kinh tế thương mại đã tạo ra nhu cầu giao lưu giữa hai nước ngày càng lớn, từ đó làm cho hai nước hiểu nhau hơn, tin cậy nhau hơn và thấy cần hợp tác với nhau nhiều hơn. Hiện giữa hai nước đang có nhiều chương trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển. Trong lĩnh vực kinh tế, 10 năm qua là 10 năm kinh tế Việt Nam phát triển tốt đẹp. Trong bước phát triển đó có sự đóng góp không nhỏ của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Sự đóng góp này được thể hiện từ nhiều góc độ và nhiều lĩnh vực khác nhau.
Từ khi có Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, các tiêu chuẩn, các chuẩn mực đó là những quy định trong WTO đã được cả thế giới thừa nhận và tuân thủ. Và trên cơ sở kết quả cuộc tổng rà soát năm 2001, trong nhiệm kỳ 2001-2005, Quốc hội nước ta đã riết ráo vừa ban hành luật mới, vừa sửa đổi các luật cũ, và một loạt các luật quan trọng đã được ban hành, sửa đổi như Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Luật Dân sự, Luật Hình sự, các Luật Thuế, Luật Hải quan, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Lao động... Hệ thống pháp luật không phân biệt đối xử đang cho phép chúng ta huy động mọi tiềm lực xã hội để phát triển.
Đến hôm nay, có thể nói về cơ bản (chỉ mới là cơ bản), hệ thống luật của Việt Nam đã khớp với luật lệ của WTO. Vấn đề hôm nay là phải khẩn trương tháo gỡ những khúc mắc trong khâu thực thi pháp luật. Đó là thành công lớn nhất của Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và hội nhập kinh tế.
Trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, ta cam kết bảo đảm hệ thống pháp luật công khai, minh bạch và bảo đảm để các thành viên trong xã hội tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách, quy chế. Cùng với quá trình đổi mới tư duy trong xã hội Việt Nam. Cùng với sự phát triển mau lẹ của phương tiện Internet, công nghệ thông tin, nhận thức và ý thức làm chủ của dân ta ngày càng cao, thông tin ngày càng phong phú, hiểu biết ngày càng rộng, do đó sự tham gia của dân ngày càng rộng rãi, ngày càng có chất lượng vào quá trình xây dựng pháp luật, đường lối chính sách, vào quá trình điều hành, quản lý kinh tế, xã hội bằng các phương tiện và hình thức khác nhau.
Hình thành đội ngũ doanh nhân Việt Nam
Chưa bao giờ ở Việt Nam có đội ngũ doanh nhân đông đảo như hôm nay. Những quy định trong các văn bản pháp luật mới sửa đổi của Việt Nam bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp ở những lĩnh vực, những ngành nghề, những nơi mà luật không cấm. Pháp luật bảo vệ quyền kinh doanh đúng luật của doanh nghiệp. Người giỏi được xã hội và nhà nước tôn vinh, khuyến khích. Thị trường trong nước mở cửa, thị trường nước ngoài thông thoáng là cơ hội để các doanh nghiệp tung hoành, bươn chải và trưởng thành.
So với thế giới thì doanh nghiệp chúng ta còn phải học hỏi và cố gắng nhiều, nhưng so với 10 năm trước đây thì đất nước ta đã có một đội ngũ doanh nghiệp hoàn toàn khác hẳn.
Trong quá trình trưởng thành của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, có một hiện tượng không khó phát hiện, đó là một bộ phận doanh nhân trẻ đang chịu ảnh hưởng ngày càng nhiều từ "văn hoá kinh doanh Mỹ", "phong cách kinh doanh Mỹ".
Các doanh nhân Việt Nam, trước hết là các doanh nhân trẻ, có xu hướng lao tới học cách kinh doanh của người Mỹ, học cách quản lý kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp Mỹ. Họ cũng liên tục đi Mỹ tham quan, khảo sát, học hỏi, tìm cơ hội kinh doanh. Họ nhìn thấy được điều họ muốn, họ cần: thị trường Mỹ là thị trường năng động, thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp Mỹ là doanh nghiệp năng động, là doanh nghiệp luôn biết sống với các ý tưởng, luôn biết cách nối tiếp các chuỗi giá trị toàn cầu. Họ hiểu rằng đã chơi được với Mỹ thì có thể chơi được với bất cứ thị trường nào!
Sự ảnh hưởng này (có cả ảnh hưởng tốt, cả ảnh hưởng không tốt) còn tiếp tục sâu rộng, khi hiện tại những thanh niên ưu tú, những học sinh thông minh học giỏi, có điều kiện, phần lớn đang hướng tới các trường đại học Mỹ để tìm tri thức. Mới chỉ hơn 10 năm mà hôm nay Việt Nam đã được xếp hạng thứ 10 trong danh sách những quốc gia có nhiều lưu học sinh nhất ở Mỹ. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực, đội ngũ được đào tạo này sẽ bổ sung thêm cho đất nước những doanh nhân giỏi, những cán bộ kỹ thuật có trình độ cao, những nhà quản lý tài năng.
Tạo điều kiện tăng xuất khẩu của Việt Nam
Nhờ có hiệp định thương mại, nhờ được hưởng quy chế tối huệ quốc, xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh với khối lượng lớn chưa từng có với bất cứ thị trường nào trong lịch sử ngoại thương Việt Nam. Tăng nhanh hơn cả sự tưởng tượng của những người lạc quan nhất.
Nếu như năm 2000, xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Mỹ có khoảng hơn 400 triệu USD thì năm 2009 nó đã đạt con số gần 13 tỷ USD, và nếu năm 2000 xuất khẩu Hoa Kỳ vào Việt Nam khoảng vài trăm triệu USD thì năm 2009 là trên 3 tỷ USD (nguồn: số liệu Hải quan Hoa Kỳ năm 2009). Những năm gần đây xuất siêu của Việt Nam vào Hoa Kỳ luôn ở mức trên dưới 10 tỷ USD, góp phần bù đắp sự thiếu hụt trong cán cân thương mại luôn nhập siêu lớn từ các nước châu Á láng giềng.
Từ chỗ chưa có gì đáng kể, nhưng trong 10 năm, Việt Nam đã vượt lên xếp thứ 26 trong số 30 quốc gia xuất khẩu hàng tiêu dùng lớn nhất vào thị trường Hoa Kỳ. Những hàng hoá đã vào được thị trường Mỹ thì có đủ trình độ, có thể vào bất cứ thị trường nào trên thế giới. Và như vậy xuất khẩu Việt Nam nói chung tăng nhanh. Trong sự tăng trưởng nhanh chóng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phải nhắc đến một số mặt hàng tăng nhiều, tăng nhanh.
Hàng dệt may: Từ vài ba chục triệu USD trước lúc ký Hiệp định thương mại, đến năm 2009 xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ đạt 5 tỷ 340 triệu USD. Trên thị trường Hoa Kỳ rộng lớn, hàng dệt may của Việt Nam chỉ kém hàng Trung Quốc. Mới chỉ có hơn 10 năm mà chúng ta đã vượt cả những bạn hàng dệt may quen thuộc hàng thế kỷ của thị trường Hoa Kỳ như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia...
Mặt hàng giày dép: Từ con số vài chục triệu USD trước lúc ký Hiệp định thương mại, năm 2009 Việt Nam đã xuất vào thị trường Mỹ 1,5 tỷ USD. Tuy còn kém xa Trung Quốc (chỉ bằng khoảng 10% hàng Trung Quốc), nhưng chúng ta đã vượt xa các nhà nhập khẩu truyền thống của thị trường Hoa Kỳ như Italia, Ấn Độ, Indonesia...
Trong số những mặt hàng xuất khẩu mới phải nhắc đến đồ gỗ và đồ nội thất: Trước hiệp định thương mại, mặt hàng này chưa có trong danh mục xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ, năm 2009 chúng ta đã xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 1,4 tỷ USD, vượt cả các bạn hàng mạnh về lĩnh vực này như Malaysia, Đài Loan, Indonesia, Italia... Việc tăng xuất khẩu vào Hoa Kỳ đã giúp chúng ta giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.
Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam. Một số ngành kinh tế mới đang hình thành và phát triển như ngành sản xuất đồ gỗ, đồ nhựa, dây điện, cáp điện... và giúp cho nhiều ngành tăng trưởng nhanh chóng hơn như ngành nông sản, thủy hải sản, du lịch... Tuy nhiên 10 năm qua, nếu chúng ta khôn hơn, giỏi hơn, làm ăn có bài bản hơn thì những thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu, cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã tốt hơn nhiều.
Tạo điều kiện cho đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam
Việt Nam chưa ký với bất kỳ quốc gia nào một hiệp định thương mại mà lại có cả chương "Phát triển quan hệ đầu tư" dài như thế, cụ thể như thế trong hiệp định với Hoa Kỳ.
Khi ký hiệp định thương mại song phương, Việt Nam có nhiều kỳ vọng về nguồn đầu tư từ Hoa Kỳ. Mười năm qua chúng ta hiểu Mỹ hơn và nhận ra rằng những kỳ vọng của chúng ta không phải là không có cơ sở. Mặc dù đến hôm nay, theo số liệu thống kê, số vốn đầu tư FDI đăng ký từ Hoa Kỳ vào Việt Nam xếp hàng thứ 6 sau các nước láng giềng châu Á.
Theo cách tính của các quan chức Hoa Kỳ, tức là cộng với số vốn đầu tư của các công ty Hoa Kỳ từ nước thứ 3 vào, thì Hoa Kỳ xếp thứ 3 trong danh sách các nước đầu tư vào Việt Nam. Có điều mới xuất hiện là năm 2009, Hoa Kỳ vượt lên đứng đầu danh sách đầu tư FDI trong năm 2009 vào Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đã sở hữu 65% số trái phiếu quốc tế của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài khác cũng đã vào Việt Nam khai thác nguồn nhân lực rẻ và tài nguyên của Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Rõ ràng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam chưa nhiều, chưa nhanh như ta mong đợi cả về số lượng, cả về cơ cấu. Ngoài một số dự án lớn của các tập đoàn như Intel, Ford... các tập đoàn hùng mạnh trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của Hoa Kỳ chỉ mới vào khảo sát thăm dò, thử nghiệm, "xếp gạch" giữ chỗ...
Những cái Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đem lại cho Việt Nam còn có thể kể nhiều và ở trong nhiều lĩnh vực. Những mặt tiêu cực từ thị trường này mang đến Việt Nam cũng thấy được. Đặc biệt là "văn hoá Mỹ" đang ảnh hưởng đến bản sắc văn hoá của dân tộc Việt bằng nhiều phương tiện khác nhau, cũng là điều rất đáng lưu tâm.
* Tác giả bài viết là nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.