10:03 29/03/2021

Năng lượng tái tạo: Ảnh hưởng tiêu cực nếu tốc độ, quy mô phát triển quá lớn

Nguyễn Mạnh

Việc phát triển năng lượng tái tạo với tốc độ, quy mô quá lớn có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vận hành của hệ thống điện và lưới điện truyền tải.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Góp ý cho dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 (Quy hoạch điện VIII), một số ý kiến cho rằng, việc phát triển năng lượng tái tạo với tốc độ, quy mô quá lớn có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vận hành của hệ thống điện và lưới điện truyền tải. 

Theo dự thảo Quy hoạch Điện VIII, các nguồn điện gió và năng lượng mặt trời sẽ phát triển mạnh (năm 2045 tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo gồm cả thủy điện lớn đạt 53%). Trong khi đó, mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị đã quy định: Tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15-20% vào năm 2030, và tăng lên 25-30% vào năm 2045.

TÍNH ỔN ĐỊNH KHÔNG CAO 

Góp ý kiến về việc dự thảo Quy hoạch Điện VIII đưa ra nội dung các nguồn điện gió và năng lượng mặt trời sẽ phát triển mạnh (năm 2045 tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo gồm cả thủy điện lớn đạt 53%), Ngân hàng Nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng công ty Truyền tải điện, Tổng công ty Điện lực miền Trung cho rằng, nguồn năng lượng tái tạo từ điện mặt trời, điện gió có tính ổn định không cao, phụ thuộc lớn vào tình hình thời tiết. Bên cạnh đó, trong giai đoạn vừa qua, điện gió, điện mặt trời phát triển rất nhanh nhưng đã xuất hiện một số tồn tại liên quan đến giá điện, các rào cản kỹ thuật, việc đấu nối vào hệ thống điện quốc gia...

Chính vì thế, các đơn vị trên đề nghị, rà soát tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo các giai đoạn đến năm 2030 và năm 2045, xem xét hạn chế việc phát triển năng lượng tái tạo với tốc độ và quy mô quá lớn như trong thời gian qua, đã và sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc vận hành của hệ thống điện nói chung, việc đầu tư và vận hành hiệu quả lưới điện truyền tải nói riêng; giảm tỷ lệ năng lượng tái tạo cho phù hợp với Nghị quyết 55, cụ thể 15-20% vào năm 2030, 25-30% vào năm 2045.

Trả lời về vấn đề này, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) – đơn vị tư vấn Quy hoạch Điện VIII cho biết, quy mô nguồn năng lượng tái tạo tính toán đề xuất trong dự thảo Quy hoạch Điện VIII hiện đã phù hợp với mục tiêu năng lượng tái tạo đặt ra trong Nghị quyết 55-NQ/TW. Cụ thể, tỷ lệ năng lượng tái tạo được định nghĩa là tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp, mức tỷ lệ này tương ứng với tỷ lệ điện năng của năng lượng tái tạo trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc là khoảng 30% năm 2030 và 40% năm 2045. 

Mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo theo Chiến lược phát triển nguồn  năng lượng tái tạo của Việt Nam giai đoạn đến 2030 định hướng đến 2050 (Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015) đạt 32% năm 2030 và 43% năm 2050. Tư vấn cho biết thêm, khi đưa ra chính sách về mục tiêu  năng lượng tái tạo là tỷ lệ thấp nhất phải đạt được. Mô hình quy hoạch lựa chọn phát triển  năng lượng tái tạo vượt mức thấp nhất, chứng tỏ chi phí đầu tư của nguồn  năng lượng tái tạo dự báo trong tương lai thấp, việc tăng cường phát triển  năng lượng tái tạo hơn so với mục tiêu vẫn đảm bảo là phương án nguồn điện có chi phí thấp nhất.

Góp ý cho dự thảo, Ủy Ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho rằng, trong giai đoạn đến năm 2030, tỷ lệ dự phòng thô của hệ thống điện (bao  gồm  cả các nguồn điện  năng lượng tái tạo) là tương đối cao, khoảng 70% năm 2025 và 60% năm 2030; điều này dẫn đến việc các nhà máy nhiệt điện than và khí sẽ có Tmax (thời gian sử dụng công suất lớn nhất) hàng năm thấp, có thể phải cắt giảm công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo tại một số thời điểm cũng như không tận dụng tối đa hiệu quả của các nguồn điện khác như nhiệt điện khí tự nhiên, thủy điện. 

Do đó, cần xem xét, đánh giá kỹ vấn đề này để có đề xuất phát triển nguồn điện phù hợp và sớm có kế hoạch liên kết lưới điện khu vực để mua bán, trao đổi điện năng giữa các nước, đảm bảo vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện quốc gia, tránh trường hợp lãng phí, không hiệu quả trong đầu tư.

Tiếp thu ý kiến trên, đơn vị tư vấn cho biết, đã xem xét các vấn đề nêu ra, các nguồn điện gió, mặt trời không ổn định, phụ thuộc vào thời tiết nên thường sẽ không tính tới trong dự phòng công suất của hệ thống điện. Nếu không tính công suất của điện gió, mặt trời thì dự phòng của hệ thống điện trong các năm 2025, 2030 là 24% và 16,1% đối với phụ tải cơ sở và 21% và 14,7% đối với phụ tải cao, đây là các con số phù hợp.  

Với góp ý về việc cần ưu tiên cân bằng năng lượng vùng, miền để tránh xây dựng quá nhiều lưới điện truyền tải, tư vấn cho biết, việc ưu tiên cân bằng năng lượng vùng, miền là một trong những tiêu chí của bài toán quy hoạch điện. Điều này đã được tính đến trong mục tiêu tối thiểu hóa chi phí của mô hình quy hoạch nguồn điện, trong đó có tích hợp cả nguồn điện và lưới điện truyền tải liên vùng. 

Quy hoạch Điện VIII đã xem xét xây dựng thêm các nguồn điện tại chỗ khu vực Bắc bộ: Nhiệt điện LNG Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nghi Sơn... Tuy nhiên, khả năng phát triển về  năng lượng tái tạo, về nguồn điện miền Bắc không thuận lợi như khu vực Trung bộ, Nam Trung bộ. Quy hoạch đã đưa ra so sánh tương đối chi phí sản xuất điện tại các vùng và đề xuất xây dựng biểu giá vùng, miền sẽ góp phần điều hòa khả năng xây dựng nguồn điện, tránh truyền tải xa.

Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng, cần xem xét phương án mở rộng các thuỷ điện lớn có hồ điều tiết, nâng công suất lắp đặt đối với các thuỷ điện nhỏ sẽ đưa vào vận hành trong giai đoạn quy hoạch và chuyển chế độ, thời điểm huy động phát đỉnh của thuỷ điện. Giải trình về vấn đề này, đơn vị tư vấn cho biết, khi có điện gió, mặt trời, các nhà máy thủy điện là một trong nguồn điện đóng vai trò tích cực trong việc tích hợp các nguồn  năng lượng tái tạo biến đổi. 

Trong mô hình tính toán, các thủy điện nhỏ cũng đã chuyển thời điểm huy động phù hợp. Ngoài việc mở rộng các thủy điện có hồ điều tiết, nâng công suất lắp đặt thủy điện nhỏ cũng có nhiều biện pháp khác để tích hợp nguồn năng lượng tái tạo như lắp đặt thêm pin tích năng, xây dựng thêm nguồn điện ICE (nhà máy điện động cơ đốt trong linh hoạt), các nhà máy nhiệt điện cải tạo, bổ sung thiết bị để tăng tính linh hoạt.

VẪN CẦN PHÁT TRIỂN THÊM NHIỆT ĐIỆN THAN?

Trước đó, góp ý cho dự thảo Quy hoạch điện VIII, các tỉnh có quy hoạch nhiệt điện than, Liên minh năng lượng và Đại sứ quán Đan Mạch nhận định, trong 10 năm tới không phát triển thêm các dự án điện than mới. Thay vào đó, Việt Nam cần ưu tiên phát triển  năng lượng tái tạo, nhất là điện mặt trời phân tán và điện gió.

Trả lời nội dung này, đơn vị tư vấn cho rằng, quy mô các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng. Bởi, đây là những dự án đã thực hiện công tác xúc tiến đầu tư tốt, không thể loại bỏ. Ví dụ như: Nhiệt điện Nam Định I, Thái Bình II, Nhiệt điện Vũng Áng II, Nhiệt điện Vân Phong I, Nhiệt điện Duyên Hải II... Sau năm 2035, hệ thống vẫn cần tiếp tục phát triển một phần nhỏ nhiệt điện than để đảm bảo tiêu chí an ninh năng lượng, giá điện không tăng quá cao.

Tuy nhiên, trong Quy hoạch Điện VIII đã yêu cầu các nhà máy nhiệt điện than xây mới sử dụng công nghệ. Cụ thể, trong giai đoạn 2021-2025 chỉ xây dựng công nghệ nhiệt điện than siêu tới hạn trở lên, giai đoạn từ 2025-2035 chỉ xây dựng nhiệt điện than trên siêu tới hạn (USC) trở lên và sau năm 2035 chỉ xây dựng nhiệt điện than trên siêu tới hạn cải tiến (AUSC).

Để đáp ứng nhu cầu phụ tải với chi phí không quá cao, hệ thống vẫn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện. Theo đơn vị tư vấn, nếu chọn phát triển nhiệt điện khí LNG thay than thì sự phụ thuộc vào bên ngoài vẫn như vậy, và chỉ phụ thuộc vào loại hình khí LNG sẽ làm giảm mức độ an ninh năng lượng, ngoài ra chi phí sản xuất điện của nguồn điện LNG khá lớn, giá điện sẽ tăng cao hơn nhiều (chi phí hệ thống sẽ tăng khoảng 2 tỷ USD/năm so với kịch bản chọn), không phù hợp với tiêu chí quy hoạch nguồn điện theo chi phí tối thiểu đã đặt ra. 

Kịch bản phát triển nguồn điện lựa chọn đã đảm bảo được các mục tiêu phát triển  năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính theo các chính sách hiện hành. Nếu phát triển tăng thêm nguồn  năng lượng tái tạo, thì chi phí hệ thống sẽ cao hơn (kịch bản tăng  năng lượng tái tạo sẽ cao hơn khoảng 1 tỷ USD/năm so với kịch bản chọn), không phù hợp với tiêu chí quy hoạch nguồn điện đặt ra.

Đơn vị tư vấn cho biết thêm, công nghệ các nhà máy nhiệt điện than hiện nay đã phát triển và tiến bộ vượt bậc nhằm đáp ứng nhu cầu giảm tiêu hao năng lượng và đảm bảo về môi trường. Vì vậy, với công nghệ hiện đại của các nhà máy nhiệt điện than hiện nay ngoài hiệu suất có thể lên đến hơn 50%, tiêu hao ít nhiên liệu và tài nguyên thì công nghệ xử lý chất thải cuối nguồn cũng đạt hiệu suất cao tương ứng có thể xử lý để giảm tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái và sức khỏe con người.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa giao Bộ Công Thương nghiên cứu thông tin phản ánh về cơ cấu nguồn nhiệt điện than trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong dự thảo Quy hoạch điện VIII, cơ cấu nhiệt điện than vẫn được duy trì cho tới năm 2045 trong khi đó lợi thế về năng lượng tái tạo chưa được tận dụng, khai thác đúng mức.

Dự thảo Quy hoạch điện VIII đang mâu thuẫn với quy hoạch tích hợp Đồng bằng Sông Cửu Long và Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng Sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Các nhà máy nhiệt điện than nên được thay thế bằng năng lượng khí đốt và năng lượng tái tạo. Thủ tướng giao Bộ Công Thương nghiên cứu, đánh giá trong quá trình xây dựng và trình duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.