Quản vốn Nhà nước: Loay hoay tìm mô hình
Tách bạch chức năng quản lý nhà nước và quản lý vốn tại doanh nghiệp như thế nào để tránh các những câu chuyện ồn ào như tại Sabeco vừa qua
Nên hay không nên thành lập một cơ quan chuyên trách độc lập thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty? Có nên tồn tại cùng lúc nhiều tổ chức, cơ quan quản vốn nhà nước? Tách bạch chức năng quản lý nhà nước và quản lý vốn tại doanh nghiệp như thế nào để tránh các những câu chuyện ồn ào như tại Sabeco vừa qua...
Công bố của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho thấy, nếu tính toàn bộ các doanh nghiệp có 100% và trên 50% sở hữu vốn nhà nước thì tổng tài sản đã lên đến 5,4 triệu tỷ đồng (tương đương 240 tỷ USD).
Để khối tài sản khổng lồ này được bảo toàn và sinh lời một cách hiệu quả nhất, Việt Nam phải nhanh chóng và quyết liệt trong việc hình thành và áp dụng các mô hình quản vốn nhà nước hiện đại có tham khảo bài học từ các nền kinh tế phát triển cao hơn.
Cho đến nay, có một số mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước như bộ hoặc cơ quan cấp bộ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với tài sản nhà nước tại doanh nghiệp (điển hình là Indonesia, Trung Quốc); đơn vị thuộc Bộ Tài chính hoặc thuộc các bộ quản lý ngành được thành lập để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu - hình thức này được áp dụng tại một số nước Bắc Âu (Thụy Điển, Na uy, Đức, Nam Phi...); tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp kinh doanh vốn đầu tư nhà nước (điển hình là Temasek - Singapore; Khazanah - Malaysia...).
Tuy nhiên, qua quá trình phát triển và từ kinh nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước vào một tổ chức đầu tư kinh doanh vốn nhà nước hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp đang dần trở thành xu thế, ngày càng được nhiều các quốc gia lựa chọn do có nhiều ưu điểm và phù hợp hơn về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình khác.
Mô hình tại Singapore và Malaysia
Mô hình tập trung dưới hình thức doanh nghiệp đang được một số nước thiết lập để giám sát và quản lý vốn nhà nước. Những doanh nghiệp này có tư cách pháp lý độc lập và có bộ máy quản trị riêng. Trên thế giới, hai tên tuổi được nhắc đến nhiều nhất với hình thức này là Tập đoàn Temasek (Singapore) và Tập đoàn Khazanah (Malaysia).
Trước hết hãy “mổ xẻ” Temasek. Đây là tổ chức kinh doanh vốn đầu tư nhà nước hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp. Temasek, bên cạnh Tổng công ty Đầu tư vốn của Chính phủ (CIIC), được Chính phủ Singapore cấp vốn để đầu tư vào các doanh nghiệp khác.
Việc cấp vốn cho hai doanh nghiệp này được thực hiện thông qua Bộ Tài chính trên cơ sở dự toán đầu tư vốn đã được Quốc hội phê chuẩn. Ngoài nguồn vốn Chính phủ cấp, Temasek được giao quản lý toàn bộ phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước của Chính phủ Singapore như Tập đoàn Hàng không Singapore Airlines, Tập đoàn Năng lượng SingPower, Tập đoàn Viễn thông SingTel...
Mặc dù là tập đoàn do Nhà nước đầu tư vốn, Temasek hoạt động như một tập đoàn tư nhân và được khẳng định là một nhà đầu tư và một cổ đông năng động. Những ưu thế mạnh mẽ về thể chế pháp trị minh bạch, cơ chế thị trường hiện đại, cộng với tính kỹ trị và tính chuyên nghiệp cao, đã tạo điều kiện cho Temasek phát triển, uy tín ngày càng cao trong cộng đồng kinh doanh và tài chính, không chỉ trong nước mà còn vươn ra toàn cầu.
Phương thức đầu tư của Temasek chủ yếu thông qua mua cổ phần các công ty kinh doanh dựa trên tầm nhìn, năng lực thẩm định và kỹ năng giao dịch đàm phán chuyên sâu. Tổng danh mục vốn đầu tư của Temasek đến 31/3/2014 là 223 tỷ đô la Singapore, tăng hơn 2 lần so với năm 2004 (90 tỷ Đô la Singapore). 31% số vốn được đầu tư tại Singapore, 41% tại các nước châu Á (riêng Trung Quốc là 25%) và 28% là tại các khu vực khác trên toàn thế giới.
Vốn chủ sở hữu đạt 187 tỷ đô la Singapore năm 2014, tăng gần 3 lần so với năm 2004 (65 tỷ Đô la Singapore).
Còn với trường hợp Khzanah, Malaysia, Khzanah là tổ chức đầu tư vốn nhà nước có cơ cấu gồm công ty mẹ (Khazanah Nasional Berhad), các công ty con và các công ty có cổ phần, vốn góp của công ty mẹ.
Khazanah Nasional Berhad được giao thực hiện các chức năng, nhiệm vụ: quản lý các khoản vốn đầu tư do Chính phủ Malaysia giao; thực hiện các khoản đầu tư mới trong các ngành, lĩnh vực mang tính chiến lược, lĩnh vực công nghệ cao và tìm kiếm các khoản đầu tư chiến lược ở nước ngoài; quản lý có hiệu quả vốn, tài sản của Chính phủ Malaysia tại các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khác (trừ Tập đoàn Petronas và một số doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ trực tiếp quản lý).
Hiện nay, Khazanah Nasional Berhad là cổ đông chi phối của 9 công ty chiến lược quốc gia gồm Tenaga Nasional, Telekom Malaysia, Proton, Tập đoàn UEM, Plus, Ngân hàng RHB, Malaysia Airports, PMB và Malaysia Airlines.
Khazanah cũng là nhà đầu tư chủ yếu trong các ngành, lĩnh vực chiến lược như: cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng, dịch vụ tài chính, hàng không, công nghệ và truyền thông.
Các tài sản do công ty quản lý có giá trị khoảng trên 50 tỷ Ringit (tương đương khoảng 12 tỷ USD). Các công ty mà Khazanah Nasional Berhad là cổ đông đa số có nguồn vốn trên 200 tỷ Ringit, chiếm 1/3 thị trường vốn của Malaysia.
Mô hình cơ quan chuyên trách tại Việt Nam
Hiện nay, việc quản vốn nhà nước tại Việt Nam rất phân tán và do nhiều đầu mối đảm nhận bao gồm cả Chính phủ, các bộ ngành, UBND các tỉnh và Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
Những câu chuyện tranh cãi ồn ào gần đây liên quan đến cổ tức của 2 ngân hàng lớn là Vietinbank, BIDV hay chuyện lùm xùm quanh việc bổ nhiệm nhân sự tại Sabeco của Bộ Công Thương đã cho thấy nhiều bất cập của mô hình quản vốn dưới tay các bộ quản lý ngành. Còn đối với mô hình SCIC, sau 10 năm hoạt động, dù đã đạt được một số kết quả song kỳ vọng về một Temasek Việt Nam vẫn còn xa vời.
Bình luận về câu chuyện này, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng, để mang lại những thay đổi thực chất trong quản lý tài sản nhà nước, bên cạnh tìm ra mô hình ưu việt, theo xu hướng hiện đại trên thế giới, cần rà soát lại, xây dựng và quy định chặt chẽ cơ chế quản lý, giao quyền đại diện vốn nhà nước, đảm bảo được tính minh bạch và tính thống nhất, chuyên nghiệp.
Vị chuyên gia này cũng nhấn mạnh rằng, cần thiết phải tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý vốn nhà nước.
Từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như đã đề cập ở trên, vấn đề đặt ra là mô hình “một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước” như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đặt ra nên được nghiên cứu theo hướng nào để một mặt bảo đảm được việc “tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, UBND đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp”, khắc phục được những bất cập như phân tán, chồng chéo trong quản vốn nhà nước tồn tại lâu nay.
Mặt khác, mô hình này cần quản lý hiệu quả phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, phù hợp với tiến trình các doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hoá mạnh mẽ theo đó Nhà nước sẽ không còn là “ông chủ” của doanh nghiệp theo kiểu mệnh lệnh hành chính, mà thay vào đó là cơ quan đại diện chủ sở hữu với cơ chế “cổ đông” năng động trong quá trình quản trị doanh nghiệp, tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế thị trường.
Công bố của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho thấy, nếu tính toàn bộ các doanh nghiệp có 100% và trên 50% sở hữu vốn nhà nước thì tổng tài sản đã lên đến 5,4 triệu tỷ đồng (tương đương 240 tỷ USD).
Để khối tài sản khổng lồ này được bảo toàn và sinh lời một cách hiệu quả nhất, Việt Nam phải nhanh chóng và quyết liệt trong việc hình thành và áp dụng các mô hình quản vốn nhà nước hiện đại có tham khảo bài học từ các nền kinh tế phát triển cao hơn.
Cho đến nay, có một số mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước như bộ hoặc cơ quan cấp bộ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với tài sản nhà nước tại doanh nghiệp (điển hình là Indonesia, Trung Quốc); đơn vị thuộc Bộ Tài chính hoặc thuộc các bộ quản lý ngành được thành lập để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu - hình thức này được áp dụng tại một số nước Bắc Âu (Thụy Điển, Na uy, Đức, Nam Phi...); tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp kinh doanh vốn đầu tư nhà nước (điển hình là Temasek - Singapore; Khazanah - Malaysia...).
Tuy nhiên, qua quá trình phát triển và từ kinh nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước vào một tổ chức đầu tư kinh doanh vốn nhà nước hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp đang dần trở thành xu thế, ngày càng được nhiều các quốc gia lựa chọn do có nhiều ưu điểm và phù hợp hơn về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình khác.
Mô hình tại Singapore và Malaysia
Mô hình tập trung dưới hình thức doanh nghiệp đang được một số nước thiết lập để giám sát và quản lý vốn nhà nước. Những doanh nghiệp này có tư cách pháp lý độc lập và có bộ máy quản trị riêng. Trên thế giới, hai tên tuổi được nhắc đến nhiều nhất với hình thức này là Tập đoàn Temasek (Singapore) và Tập đoàn Khazanah (Malaysia).
Trước hết hãy “mổ xẻ” Temasek. Đây là tổ chức kinh doanh vốn đầu tư nhà nước hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp. Temasek, bên cạnh Tổng công ty Đầu tư vốn của Chính phủ (CIIC), được Chính phủ Singapore cấp vốn để đầu tư vào các doanh nghiệp khác.
Việc cấp vốn cho hai doanh nghiệp này được thực hiện thông qua Bộ Tài chính trên cơ sở dự toán đầu tư vốn đã được Quốc hội phê chuẩn. Ngoài nguồn vốn Chính phủ cấp, Temasek được giao quản lý toàn bộ phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước của Chính phủ Singapore như Tập đoàn Hàng không Singapore Airlines, Tập đoàn Năng lượng SingPower, Tập đoàn Viễn thông SingTel...
Mặc dù là tập đoàn do Nhà nước đầu tư vốn, Temasek hoạt động như một tập đoàn tư nhân và được khẳng định là một nhà đầu tư và một cổ đông năng động. Những ưu thế mạnh mẽ về thể chế pháp trị minh bạch, cơ chế thị trường hiện đại, cộng với tính kỹ trị và tính chuyên nghiệp cao, đã tạo điều kiện cho Temasek phát triển, uy tín ngày càng cao trong cộng đồng kinh doanh và tài chính, không chỉ trong nước mà còn vươn ra toàn cầu.
Phương thức đầu tư của Temasek chủ yếu thông qua mua cổ phần các công ty kinh doanh dựa trên tầm nhìn, năng lực thẩm định và kỹ năng giao dịch đàm phán chuyên sâu. Tổng danh mục vốn đầu tư của Temasek đến 31/3/2014 là 223 tỷ đô la Singapore, tăng hơn 2 lần so với năm 2004 (90 tỷ Đô la Singapore). 31% số vốn được đầu tư tại Singapore, 41% tại các nước châu Á (riêng Trung Quốc là 25%) và 28% là tại các khu vực khác trên toàn thế giới.
Vốn chủ sở hữu đạt 187 tỷ đô la Singapore năm 2014, tăng gần 3 lần so với năm 2004 (65 tỷ Đô la Singapore).
Còn với trường hợp Khzanah, Malaysia, Khzanah là tổ chức đầu tư vốn nhà nước có cơ cấu gồm công ty mẹ (Khazanah Nasional Berhad), các công ty con và các công ty có cổ phần, vốn góp của công ty mẹ.
Khazanah Nasional Berhad được giao thực hiện các chức năng, nhiệm vụ: quản lý các khoản vốn đầu tư do Chính phủ Malaysia giao; thực hiện các khoản đầu tư mới trong các ngành, lĩnh vực mang tính chiến lược, lĩnh vực công nghệ cao và tìm kiếm các khoản đầu tư chiến lược ở nước ngoài; quản lý có hiệu quả vốn, tài sản của Chính phủ Malaysia tại các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khác (trừ Tập đoàn Petronas và một số doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ trực tiếp quản lý).
Hiện nay, Khazanah Nasional Berhad là cổ đông chi phối của 9 công ty chiến lược quốc gia gồm Tenaga Nasional, Telekom Malaysia, Proton, Tập đoàn UEM, Plus, Ngân hàng RHB, Malaysia Airports, PMB và Malaysia Airlines.
Khazanah cũng là nhà đầu tư chủ yếu trong các ngành, lĩnh vực chiến lược như: cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng, dịch vụ tài chính, hàng không, công nghệ và truyền thông.
Các tài sản do công ty quản lý có giá trị khoảng trên 50 tỷ Ringit (tương đương khoảng 12 tỷ USD). Các công ty mà Khazanah Nasional Berhad là cổ đông đa số có nguồn vốn trên 200 tỷ Ringit, chiếm 1/3 thị trường vốn của Malaysia.
Mô hình cơ quan chuyên trách tại Việt Nam
Hiện nay, việc quản vốn nhà nước tại Việt Nam rất phân tán và do nhiều đầu mối đảm nhận bao gồm cả Chính phủ, các bộ ngành, UBND các tỉnh và Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
Những câu chuyện tranh cãi ồn ào gần đây liên quan đến cổ tức của 2 ngân hàng lớn là Vietinbank, BIDV hay chuyện lùm xùm quanh việc bổ nhiệm nhân sự tại Sabeco của Bộ Công Thương đã cho thấy nhiều bất cập của mô hình quản vốn dưới tay các bộ quản lý ngành. Còn đối với mô hình SCIC, sau 10 năm hoạt động, dù đã đạt được một số kết quả song kỳ vọng về một Temasek Việt Nam vẫn còn xa vời.
Bình luận về câu chuyện này, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng, để mang lại những thay đổi thực chất trong quản lý tài sản nhà nước, bên cạnh tìm ra mô hình ưu việt, theo xu hướng hiện đại trên thế giới, cần rà soát lại, xây dựng và quy định chặt chẽ cơ chế quản lý, giao quyền đại diện vốn nhà nước, đảm bảo được tính minh bạch và tính thống nhất, chuyên nghiệp.
Vị chuyên gia này cũng nhấn mạnh rằng, cần thiết phải tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý vốn nhà nước.
Từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như đã đề cập ở trên, vấn đề đặt ra là mô hình “một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước” như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đặt ra nên được nghiên cứu theo hướng nào để một mặt bảo đảm được việc “tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, UBND đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp”, khắc phục được những bất cập như phân tán, chồng chéo trong quản vốn nhà nước tồn tại lâu nay.
Mặt khác, mô hình này cần quản lý hiệu quả phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, phù hợp với tiến trình các doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hoá mạnh mẽ theo đó Nhà nước sẽ không còn là “ông chủ” của doanh nghiệp theo kiểu mệnh lệnh hành chính, mà thay vào đó là cơ quan đại diện chủ sở hữu với cơ chế “cổ đông” năng động trong quá trình quản trị doanh nghiệp, tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế thị trường.