Quyền nhận, mua thêm cổ phiếu mới: Lợi hay hại?
Nếu tăng vốn cổ đông lên quá hiệu quả kinh doanh thì áp lực về cổ tức sẽ tăng, thu nhập trên mỗi cổ phiếu sẽ giảm
Thời gian gần đây thị trường liên tiếp có thêm hàng, các doanh nghiệp niêm yết đang liên tiếp có chính sách tăng vốn bằng hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu, trả tiền thưởng bằng cổ phiếu hay phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, đối tác chiến lược với giá ưu đãi.
Thị trường chứng khoán vẫn chưa thoát khỏi xu thế giảm, cung nhà đầu tư trong nước khá yếu và một nguyên nhân góp phần làm thị trường chứng khoán mất điểm là hiệu ứng "pha loãng" cổ phiếu của các công ty niêm yết.
Bản chất của việc tăng vốn
Trong quá trình hoạt động vì nhiều lý do mà công ty cổ phần quyết định tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Tuy nhiên, không phải bất kỳ việc phát hành cổ phiếu mới nào cũng làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty, nhưng mọi việc phát hành cổ phiếu mới trên thị trường đều có tác động đến giá cổ phiếu của công ty.
Có thể phân biệt hai loại tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới của công ty cổ phần: Phát hành cổ phiếu mới không thu tiền và phát hành cổ phiếu mới có thu tiền.
Phát hành cổ phiếu mới không thu tiền, thường xảy ra một trong các trường hợp sau: Phát hành cổ phiếu mới do chuyển một phần lợi nhuận để lại hoặc phần dự trữ vào vốn góp. Việc này được thực hiện thông qua phương thức trả tiền thưởng bằng cổ phiếu phân chia cho cổ đông hiện hữu theo tỉ lệ số cổ phiếu mà nhà đầu tư hiện có, phát hành cổ phiếu mới do trả cổ tức bằng cổ phiếu.
Theo cách này, vốn chủ sở hữu của công ty không bị ảnh hưởng mà chỉ làm thay đổi cơ cấu vốn và tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành của công ty.
Phát hành cổ phiếu mới có thu tiền: Trong quá trình hoạt động, công ty cần thêm vốn để đầu tư phục vụ chiến lược kinh doanh dài hạn, công ty có thể lựa chọn phương thức huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới.
Việc phát hành này thông thường dành quyền mua cho cổ đông chiến lược, cán bộ công nhân viên, cho cổ đông hiện hữu với giá bán ưu đãi thấp hơp giá thị trường, có thể bằng mệnh giá nhưng với một tỉ lệ thích hợp.
Trường hợp này, vốn chủ sở hữu công ty thay đổi khá lớn. Một trường hợp nữa là chào bán cổ phiếu ra công chúng hay thông qua đấu giá, các nhà đầu tư mới và cổ động hiện hữu có quyền như nhau.
Nhà đầu tư không có sự lựa chọn
Quan sát thị trường thời gian gần đây, nhà đầu tư có thể dễ dàng nhận thấy những cổ phiếu nào sắp chốt ngày phát sinh các quyền (ngày giao dịch không hưởng quyền) đều đối mặt với tình trạng giá cổ phiếu sẵn sàng giảm trước ngày chốt.
Vậy tại sao khi nhà đầu tư sắp nhận được những ưu đãi như nhận thêm cổ phiếu hoặc mua với giá thấp hơn giá thị trường thì giá cổ phiếu lại giảm?
Lợi thế khi hưởng quyền nhận thêm hay mua thêm cổ phiếu mới phụ thuộc rất nhiều vào tính hình cung cầu của thị trường tại thời điểm phát sinh quyền. Nếu trong thời gian thị trường thị trường chứng khoán tăng giá, cầu lớn hơn cung, tức là người mua có cơ hội mua mà người bán cũng dễ dàng bán bớt số cổ phiếu hiện đang nắm giữ thì khả năng giá cổ phiếu sẽ tăng.
Ngược lại, nếu cung vượt cầu hay nhà đầu tư không còn quan tâm nhiều thì việc tăng số lượng cổ phiếu càng làm mất cân đối cung cầu, hậu quả là giá cổ phiếu giảm. Trường hợp này đang hiện diện trên thị trường chứng khoán.
Hiện nay, nếu nhà đầu tư quyết định thực hiện quyền của mình phải đối mặt với việc giá chứng khoán sẽ giảm do cầu thị trường hiện đang khá yếu cộng với cung tăng. Không phải cổ đông hiện hữu nào cũng muốn nắm giữ đợi đến ngày giao dịch không hưởng quyền, đó là chưa kể đến phải mất vài tháng cổ phiếu mới về để có thể giao dịch được.
Còn trong trường hợp cổ đông từ chối quyền thì giá cổ phiếu đang sở hữu sẽ bị giảm đi một lượng nhất định sau ngày giao dịch không hưởng quyền, đồng thời bị giảm tỉ trọng trong tổng số các cổ phiếu đã phát hành và cổ đông sẽ bị giảm vị thế, tiếng nói và quyền biểu quyết trong công ty.
Rất nhiều nhà đầu tư hiện đang nắm giữ cổ phiếu mua được cách đây 6-7 tháng với mức giá cao lâm vào tình trạng dở khóc dở cười: Bán đi để tránh phải thực hiện quyền cũng lỗ mà mua vào cũng lỗ.
Nhà đầu tư dài hạn thường quan tâm tới nhiều về thông tin của đợt tăng vốn nhiều hơn là tình hình cung cầu ở thời điểm phát sinh quyền. Tuy nhiên, vấn đề đáng ngại là các công ty đua nhau phát hành, thu tiền từ cổ đông nhưng mục đích sử dụng vốn, hiệu quả đến đâu lại không được giải thích, cam kết và chứng minh một cách rành mạch.
Các công ty tăng vốn có nhiều lý do khác nhau chủ yếu là huy động vốn cho các dự án đầu tư dài hạn, nhưng cũng không ít doanh nghiệp huy động vốn chỉ vì mục đích đảm bảo số vốn điều lệ tối thiểu 80 tỉ đồng, đủ điều kiện niêm yết tại sàn Tp.HCM. Một số khác phát hành để thực hiện dự án nhưng không khả thi lại đem vốn đi đầu tư tài chính, bất động sản.
Với cuộc chạy đua "làm lớn" mình thông qua kênh tăng vốn, các công ty cần tính đến lợi ích lâu dài, hiệu quả sử dụng vốn. Nếu tăng vốn cổ đông lên quá hiệu quả kinh doanh thì áp lực về cổ tức sẽ tăng, thu nhập trên mỗi cổ phiếu sẽ giảm.
Nhà đầu tư trước khi đưa ra quyết định đầu tư, đặc biệt là quyết định mua thêm do phát hành tăng vốn, cần phải nghiên cứu rõ mục đích huy động vốn của công ty và tính khả thi của dự án mà công ty có ý định đầu tư, tránh sa vào "cái bẫy nợ nần" trong khi thị trường thì ảm đạm, gánh nặng trả lãi vay lớn và mất đi cơ hội đầu tư khác do "chết" vốn.
Thị trường chứng khoán vẫn chưa thoát khỏi xu thế giảm, cung nhà đầu tư trong nước khá yếu và một nguyên nhân góp phần làm thị trường chứng khoán mất điểm là hiệu ứng "pha loãng" cổ phiếu của các công ty niêm yết.
Bản chất của việc tăng vốn
Trong quá trình hoạt động vì nhiều lý do mà công ty cổ phần quyết định tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Tuy nhiên, không phải bất kỳ việc phát hành cổ phiếu mới nào cũng làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty, nhưng mọi việc phát hành cổ phiếu mới trên thị trường đều có tác động đến giá cổ phiếu của công ty.
Có thể phân biệt hai loại tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới của công ty cổ phần: Phát hành cổ phiếu mới không thu tiền và phát hành cổ phiếu mới có thu tiền.
Phát hành cổ phiếu mới không thu tiền, thường xảy ra một trong các trường hợp sau: Phát hành cổ phiếu mới do chuyển một phần lợi nhuận để lại hoặc phần dự trữ vào vốn góp. Việc này được thực hiện thông qua phương thức trả tiền thưởng bằng cổ phiếu phân chia cho cổ đông hiện hữu theo tỉ lệ số cổ phiếu mà nhà đầu tư hiện có, phát hành cổ phiếu mới do trả cổ tức bằng cổ phiếu.
Theo cách này, vốn chủ sở hữu của công ty không bị ảnh hưởng mà chỉ làm thay đổi cơ cấu vốn và tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành của công ty.
Phát hành cổ phiếu mới có thu tiền: Trong quá trình hoạt động, công ty cần thêm vốn để đầu tư phục vụ chiến lược kinh doanh dài hạn, công ty có thể lựa chọn phương thức huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới.
Việc phát hành này thông thường dành quyền mua cho cổ đông chiến lược, cán bộ công nhân viên, cho cổ đông hiện hữu với giá bán ưu đãi thấp hơp giá thị trường, có thể bằng mệnh giá nhưng với một tỉ lệ thích hợp.
Trường hợp này, vốn chủ sở hữu công ty thay đổi khá lớn. Một trường hợp nữa là chào bán cổ phiếu ra công chúng hay thông qua đấu giá, các nhà đầu tư mới và cổ động hiện hữu có quyền như nhau.
Nhà đầu tư không có sự lựa chọn
Quan sát thị trường thời gian gần đây, nhà đầu tư có thể dễ dàng nhận thấy những cổ phiếu nào sắp chốt ngày phát sinh các quyền (ngày giao dịch không hưởng quyền) đều đối mặt với tình trạng giá cổ phiếu sẵn sàng giảm trước ngày chốt.
Vậy tại sao khi nhà đầu tư sắp nhận được những ưu đãi như nhận thêm cổ phiếu hoặc mua với giá thấp hơn giá thị trường thì giá cổ phiếu lại giảm?
Lợi thế khi hưởng quyền nhận thêm hay mua thêm cổ phiếu mới phụ thuộc rất nhiều vào tính hình cung cầu của thị trường tại thời điểm phát sinh quyền. Nếu trong thời gian thị trường thị trường chứng khoán tăng giá, cầu lớn hơn cung, tức là người mua có cơ hội mua mà người bán cũng dễ dàng bán bớt số cổ phiếu hiện đang nắm giữ thì khả năng giá cổ phiếu sẽ tăng.
Ngược lại, nếu cung vượt cầu hay nhà đầu tư không còn quan tâm nhiều thì việc tăng số lượng cổ phiếu càng làm mất cân đối cung cầu, hậu quả là giá cổ phiếu giảm. Trường hợp này đang hiện diện trên thị trường chứng khoán.
Hiện nay, nếu nhà đầu tư quyết định thực hiện quyền của mình phải đối mặt với việc giá chứng khoán sẽ giảm do cầu thị trường hiện đang khá yếu cộng với cung tăng. Không phải cổ đông hiện hữu nào cũng muốn nắm giữ đợi đến ngày giao dịch không hưởng quyền, đó là chưa kể đến phải mất vài tháng cổ phiếu mới về để có thể giao dịch được.
Còn trong trường hợp cổ đông từ chối quyền thì giá cổ phiếu đang sở hữu sẽ bị giảm đi một lượng nhất định sau ngày giao dịch không hưởng quyền, đồng thời bị giảm tỉ trọng trong tổng số các cổ phiếu đã phát hành và cổ đông sẽ bị giảm vị thế, tiếng nói và quyền biểu quyết trong công ty.
Rất nhiều nhà đầu tư hiện đang nắm giữ cổ phiếu mua được cách đây 6-7 tháng với mức giá cao lâm vào tình trạng dở khóc dở cười: Bán đi để tránh phải thực hiện quyền cũng lỗ mà mua vào cũng lỗ.
Nhà đầu tư dài hạn thường quan tâm tới nhiều về thông tin của đợt tăng vốn nhiều hơn là tình hình cung cầu ở thời điểm phát sinh quyền. Tuy nhiên, vấn đề đáng ngại là các công ty đua nhau phát hành, thu tiền từ cổ đông nhưng mục đích sử dụng vốn, hiệu quả đến đâu lại không được giải thích, cam kết và chứng minh một cách rành mạch.
Các công ty tăng vốn có nhiều lý do khác nhau chủ yếu là huy động vốn cho các dự án đầu tư dài hạn, nhưng cũng không ít doanh nghiệp huy động vốn chỉ vì mục đích đảm bảo số vốn điều lệ tối thiểu 80 tỉ đồng, đủ điều kiện niêm yết tại sàn Tp.HCM. Một số khác phát hành để thực hiện dự án nhưng không khả thi lại đem vốn đi đầu tư tài chính, bất động sản.
Với cuộc chạy đua "làm lớn" mình thông qua kênh tăng vốn, các công ty cần tính đến lợi ích lâu dài, hiệu quả sử dụng vốn. Nếu tăng vốn cổ đông lên quá hiệu quả kinh doanh thì áp lực về cổ tức sẽ tăng, thu nhập trên mỗi cổ phiếu sẽ giảm.
Nhà đầu tư trước khi đưa ra quyết định đầu tư, đặc biệt là quyết định mua thêm do phát hành tăng vốn, cần phải nghiên cứu rõ mục đích huy động vốn của công ty và tính khả thi của dự án mà công ty có ý định đầu tư, tránh sa vào "cái bẫy nợ nần" trong khi thị trường thì ảm đạm, gánh nặng trả lãi vay lớn và mất đi cơ hội đầu tư khác do "chết" vốn.