Sẽ mở rộng cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học công nghệ
Đỗ Phong
11/04/2024, 21:46
Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ quyết liệt sửa đổi toàn diện Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 với nhiều điểm mới, đột phá. Trong đó, nội dung về chấp nhận rủi ro đã được mở rộng hơn, thể hiện trong 3 chính sách, liên quan đến tổ chức, chương trình nhiệm vụ và cá nhân hoạt động khoa học công nghệ...
Ảnh minh họa.
Thông tin được đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết tại Họp báo thường kỳ quý 1/2024 của Bộ chiều ngày 10/4. Trong quý 1/2024, Bộ đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; tập trung xây dựng hồ sơ lập đề nghị xây dựng Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi)...
NỘI DUNG CHẤP NHẬN RỦI RO SẼ ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG 3 CHÍNH SÁCH
Liên quan đến quy định chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học khi sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ tới đây, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang sửa đổi toàn diện Luật Khoa học và Công nghệ nhằm thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ làm sao đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực mới cho phát triển kinh tế của đất nước.
Theo bà Diệp, việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, chính sách vượt trội, cơ chế thử nghiệm chính sách mới, rủi ro đã được thể hiện xuyên suốt trong các chỉ đạo của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội.
Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/1/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 100/2023/QH15 về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.
Bà Diệp nhấn mạnh, đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ là nghiên cứu tìm những cái mới, có thể chúng ta đặt ra mục tiêu nhưng trong quá trình nghiên cứu, không đi đến kết quả. Vì vậy, Luật Khoa học và Công nghệ 2013 đã có quy định liên quan đến chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, thể hiện ở Điều 23 về ưu đãi trong việc sử dụng nhân lực, nhân tài khoa học và công nghệ.
Theo đó, là người được bổ nhiệm vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ được hưởng ưu đãi được miễn trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra thiệt hại, rủi ro gây ra cho Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do nguyên nhân khách quan, mặc dù đã thực hiện đầy đủ quy trình, quy định về nghiên cứu khoa học.
Tại hồ sơ lập đề nghị xây dựng Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi), Bộ Khoa học và Công nghệ dự kiến có 15 nhóm chính sách lớn và đang xin ý kiến các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội để tiếp tục hoàn thiện. Trong đó, nội dung về chấp nhận rủi ro được thể hiện ở trong 3 chính sách, liên quan đến tổ chức khoa học và công nghệ, chương trình nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng nội dung về chấp nhận rủi ro đã được mở rộng hơn so với Luật Khoa học và Công nghệ 2013. Bên cạnh đó, nội dung này cũng cần được hoàn thiện đồng bộ với các hệ thống pháp luật có liên quan, chứ không chỉ ở Luật Khoa học và Công nghệ.
SỬA ĐỔI TOÀN DIỆN LUẬT KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Chia sẻ vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang nhấn mạnh Bộ đang rất quyết liệt sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ 2013, theo định hướng của Chính phủ là phải "lột xác", sửa rất kỹ, thậm chí gần như hoàn toàn mới. Trong đó, chấp nhận rủi ro là nội dung rất quan trọng nhằm khuyến khích các nhà khoa học đam mê nghiên cứu.
Một trong những điểm nghẽn của hoạt động khoa học công nghệ lâu nay vẫn là cơ chế chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu. Hiểu đơn giản, rủi ro có nghĩa là nhà khoa học sử dụng ngân sách nhà nước để nghiên cứu, quá trình nghiên cứu đúng, chi tiêu đúng quy định, theo đúng phương thức của hội đồng nhưng cuối cùng không ra kết quả, trước đây coi là thất bại.
Theo đánh giá qua thực tiễn gần 10 năm thi hành, Luật Khoa học và Công nghệ đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoa học công nghệ. Hành lang pháp lý về khoa học công nghệ ngày càng hoàn thiện theo hướng gắn kết và phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Các quy định về tổ chức Khoa học công nghệ, trọng dụng, sử dụng cá nhân hoạt động khoa học công nghệ, quản lý nhiệm vụ khoa học công nghệ được hoàn thiện; tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh, chuyển giao, ứng dụng và đổi mới công nghệ.
Luật cũng góp phần phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu công nghệ, phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ…
Bên cạnh kết quả đạt được, trong quá trình triển khai, Luật Khoa học và Công nghệ cũng còn những khó khăn, vướng mắc do một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn hoặc chưa phù hợp với quy định của các luật có liên quan, dẫn đến chưa có tác dụng thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ với vai trò là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng.
Quy định về tổ chức khoa học công nghệ công lập chưa thể hiện khả năng tự chủ của tổ chức, hiệu quả hoạt động còn chưa tương xứng; quy định các chức danh về khoa học công nghệ chưa đầy đủ và phù hợp với thực tiễn để có chính sách phù hợp với đối tượng hoạt động khoa học công nghệ gắn kết chặt với doanh nghiệp.
Quy định về sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học công nghệ chưa đầy đủ; quy định về tổ chức, triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ còn phức tạp.
Một số quy định liên quan đến Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ Quốc gia, Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ của doanh nghiệp khó triển khai do chưa phù hợp với thực tiễn và chưa thống nhất với quy định của pháp luật liên quan; còn thiếu quy định về đạo đức trong nghiên cứu, rủi ro trong nghiên cứu...
Luật cũng chưa có quy định liên quan đến quản lý hoạt động đổi mới sáng tạo thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, thúc đẩy liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ nhằm hoàn thiện thể chế, khắc phục các vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới là rất cần thiết.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng, các doanh nghiệp Việt Nam đang chứng kiến một cuộc cách mạng trong cách tiếp cận khách hàng và vận hành nhờ vào sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ số...
Đổi mới sáng tạo: Động lực cho phát triển bền vững
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Việt Nam đang tăng tốc, khẳng định vị thế là một trong những thị trường năng động bậc nhất khu vực. Trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên mới, doanh nghiệp Việt được kỳ vọng sẽ bứt phá với ba trụ cột “Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa”, chìa khóa để rút ngắn hành trình vươn tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững...
Việt Nam công bố 3 mạng lưới công nghệ chiến lược
Việc thành lập 3 Mạng lưới Đổi mới sáng tạo và chuyên gia ngành công nghệ chiến lược, bao gồm: Lượng tử (VNQuantum), An ninh mạng (ViSecurity) và Hàng không, vũ trụ, thiết bị bay không người lái (UAV Việt Nam) sẽ góp phần đưa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu trong các ngành công nghệ cao, công nghệ chiến lược…
Chân dung nhà khoa học đã giúp Trung Quốc chinh phục không gian
Từ tham gia chế tạo tên lửa sơ khai, vệ tinh đầu tiên, đến tổng công trình sư của tàu vũ trụ Thần Châu (Shenzhou) – dự án giúp Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới (sau Liên Xô và Mỹ) đưa được người lên quỹ đạo, Qi Faren, là nhà khoa học đã dành một đời để gắn bó với ngành công nghệ hàng không vũ trụ nước này…
Đồng tiền số lớn thứ hai thế giới sắp giảm giá trong tháng 9?
Kể từ năm 2016, cứ sau khi tăng giá mạnh trong tháng 8, thì sang tháng 9, đồng tiền số lớn thứ hai thế giới, Ether (ETH) thường quay đầu giảm. Năm nay, liệu kịch bản có lặp lại?
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: