
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Sáu, 05/12/2025
Đỗ Phong
05/12/2025, 14:03
Trong khuôn khổ Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA), Việt Nam đã tạo ra 16,2 triệu tCO₂tđ giảm phát thải giai đoạn 2018–2019, trong đó, 11,3 triệu tCO₂tđ đã được giao dịch, chuyển nhượng cho WB, huy động 56,5 triệu USD, còn dư 4,9 triệu tCO2tđ. Thực tế này đặt ra nhu cầu cấp thiết xác định các phương án giao dịch và thương mại hóa lượng tín chỉ carbon rừng còn lại cũng như tín chỉ carbon rừng hình thành tương lai, nhằm tối ưu hóa lợi ích tài chính và đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải...
Các chuyên gia nhấn mạnh điều này tại Hội thảo tham vấn “Cơ hội thương mại tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam” diễn ra ngày 4/12/2025, trong khuôn khổ Hỗ trợ Kỹ thuật “Phân tích các cơ hội giao dịch tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới tài trợ và Liên danh tư vấn (Công ty CP Tư vấn Năng lượng và môi trường-VNEEC và Tập đoàn South Pole) thực hiện.
Hội thảo đã cập nhật tiến độ triển khai Thỏa thuận ERPA; Cập nhật khung pháp lý liên quan đến thị trường carbon trong nước và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế của Việt Nam. Cùng với đó tham vấn kết quả đánh giá ban đầu về phương án giao dịch kết quả giảm phát thải còn dư từ Chương trình ERPA và các chương trình, dự án tín chỉ carbon rừng trong tương lai; đánh giá về các bên mua tiềm năng kết quả giảm phát thải còn dư từ Chương trình ERPA và tín chỉ carbon rừng trong tương lai.
VIỆT NAM HUY ĐỘNG 56,5 TRIỆU USD TỪ CHUYỂN NHƯỢNG 11,3 TRIỆU TÍN CHỈ RỪNG
Tín chỉ carbon rừng đang trở thành một nguồn lực tài chính quan trọng hỗ trợ công tác bảo vệ, phục hồi và quản lý rừng bền vững, đồng thời góp phần bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao sinh kế cho cộng đồng địa phương.
Trong khuôn khổ Thỏa thuận ERPA, Việt Nam đã tạo ra 16,2 triệu tCO₂tđ giảm phát thải giai đoạn 2018–2019, được thẩm định độc lập bởi Aster Global. Trong số này, có 10,3 triệu tCO₂tđ đã được giao dịch theo hợp đồng ERPA ban đầu và còn dư 5,9 triệu kết quả giảm phát thải.
Mới đây, thêm 1 triệu tCO₂tđ từ lượng dôi dư trên được Chính phủ cho phép chuyển nhượng bổ sung theo Nghị quyết 261/NQ-CP ngày 29/8/2025. Như vậy, sau khi thực hiện giao dịch bổ sung này, lượng kết quả giảm phát thải còn lại khoảng 4,9 triệu tCO₂tđ, có thể tiếp tục xem xét sử dụng cho các mục đích tiếp theo.
Cùng với đó, các chương trình như Giảm phát thải Tây Nguyên và Nam Trung Bộ dự kiến tạo ra khoảng 20 triệu tCO₂tđ giai đoạn 2021–2025 và đã lên kế hoạch chuyển nhượng 5,15 triệu tCO₂tđ cho Tổ chức Emergent.
Bà Nguyễn Thị Lệ Thu, Chuyên gia cao cấp về môi trường của Ngân hàng Thế giới, cho biết năm 2020, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đã ký Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) từ rừng tại 6 tỉnh.
Chương trình đã đạt 16,2 triệu kết quả giảm phát thải được tạo ra trong giai đoạn 2018-2019, được WB xác minh, vượt quá tổng số kết quả giảm phát thải đã cam kết (10,3 triệu tấn). WB đã thanh toán 51,5 triệu USD cho kết quả 10,3 triệu tấn giảm phát thải vào năm 2024. Mới đây, Việt Nam đã nhận thêm 5 triệu USD từ WB để thanh toán cho khoản dôi dư 1 triệu tấn giảm phát thải, nâng tổng số tiền WB đã chi trả cho Việt Nam lên 56,5 triệu USD.
Chia sẻ về giá trị, hiệu quả từ chương trình mang lại, bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, đại diện Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam (VNFF) chỉ rõ, thông qua chương trình đã huy động 56,5 triệu USD (trên 1.387,07 tỷ đồng) thông qua chuyển nhượng 11,3 triệu tấn CO2 cho WB. Đây là nguồn tài chính mới mang tính bổ sung hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng với bình quân mỗi năm được bổ sung trên 160 nghìn đồng/ha ngoài ngân sách nhà nước.
XÁC ĐỊNH CÁC PHƯƠNG ÁN GIAO DỊCH VÀ THƯƠNG MẠI HÓA HIỆU QUẢ LƯỢNG TÍN CHỈ CARBON RỪNG
Tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính từ rừng của Việt Nam là rất lớn. Thực tế này đặt ra nhu cầu cấp thiết xác định các phương án giao dịch và thương mại hóa hiệu quả đối với lượng tín chỉ carbon rừng dôi dư còn lại cũng như lượng tín chỉ carbon rừng sắp hình thành ngày càng lớn từ các chương trình, dự án giảm phát thải khí nhà kính tương lai, nhằm tối ưu hóa lợi ích tài chính và đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải.
Chuyên gia WB cho rằng với lượng phát giảm phát thải còn lại, Việt Nam cần xem xét sử dụng như thế nào có lợi nhất cho các mục tiêu đã đặt ra và cam kết thực hiện. Theo đó, cần xác định những phương án sử dụng các kết quả giảm phát thải này bao gồm cả trao đổi và thương mại hóa hiệu quả những tín chỉ carbon từ rừng nhằm tối đa hóa lợi nhuận, lợi ích trong đó có lợi ích về tài chính cũng như đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, hỗ trợ kỹ thuật “Phân tích các cơ hội giao dịch tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới tài trợ, được triển khai nhằm hỗ trợ Quỹ Bảo vệ và Phát triển Rừng Việt Nam (VNFF), Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong quản lý hiệu quả lượng giảm phát thải còn dư từ Chương trình ERPA cũng như tín chỉ carbon rừng từ các chương trình, dự án tương lai.
Bà Thu cho biết WB đã hỗ trợ kỹ thuật để Việt Nam đánh giá các phương án sử dụng tín chỉ carbon rừng mà trước mắt là lượng tín chỉ 4,9 tCO2tđ còn dôi dư từ chương trình. Cụ thể, bao gồm các hình thức trao đổi như bù trừ cho hệ thống giao dịch tín chỉ carbon của Việt Nam; thương mại hóa bán cho bên thứ 3 thông qua giao dịch trực tiếp hoặc gián tiếp.
Từ kết quả khảo sát các địa phương tham gia ERPA, mong muốn của địa phương với lượng kết quả giảm phát thải còn dư, bà Đặng Hồng Hạnh, Trưởng nhóm Tư vấn, VNEEC thông tin, ưu tiên hàng đầu (80%) là chuyển nhượng cho các cơ sở phát thải khí nhà kính lớn thông qua cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng; 60% ưu tiên cao sử dụng tín chỉ để bù trừ cho thị trường carbon trong nước hoặc bán cho WB. Mức ưu tiên trung bình (40%) cho giao dịch theo cơ chế Điều 6 hoặc CORSIA; 20% ưu tiên giao dịch trên thị trường tự nguyện.
Các địa phương cũng mong muốn mức giá bán tín chỉ carbon rừng từ 5 USD trở lên, trong đó, 40% địa phương mong muốn mức giá từ 16- 20 USD/tín chỉ.
Qua nghiên cứu, chuyên gia tư vấn nhấn mạnh rằng các kết quả giảm nhẹ từ Chương trình ERPA giai đoạn 2018-2019 không đáp ứng yêu cầu về thời gian hợp lệ đối với thị trường bắt buộc trong nước và các cơ chế Điều 6, nhưng có thể được sử dụng trong thị trường tự nguyện (trao đổi song phương hoặc qua sàn), nơi quy định linh hoạt hơn.
Tín chỉ carbon còn dư của Chương trình ERPA giai đoạn 2018-2019 cần ưu tiên phương án giao dịch trên thị trường carbon tự nguyện càng sớm càng tốt. Hiện nay, các quy định trên thị trường tự nguyện có xu hướng ngày càng chặt chẽ dần, nên việc thương mại hóa các tín chỉ carbon có thời gian tạo lập xa (quá 5 năm kể từ thời điểm bù trừ) sẽ trở nên khó khăn hơn.
Hiện nay, một số tổ chức như Liên minh LEAF và một số doanh nghiệp nước ngoài như Amazon, Eni, …đã tiếp xúc và thể hiện nhu cầu mua tín chỉ carbon rừng của Việt Nam. Ngoài ra, theo kết quả khảo sát được thực hiện trong khuôn khổ hỗ trợ kỹ thuật này, có 7 trong số 15 tổ chức tham gia khảo sát thể hiện sự quan tâm và mong muốn trao đổi sâu hơn với Chính phủ Việt Nam về việc mua lượng kết quả giảm nhẹ này.
Đối với tín chỉ carbon của Chương trình ERPA giai đoạn tiếp theo, chuyên gia tư vấn nhấn mạnh ưu tiên phương án giao dịch trên thị trường carbon tự nguyện đối với tín chỉ trước 2021; đối với tín chỉ từ 2021, ưu tiên thị trường carbon bắt buộc quốc tế theo Điều 6.2 hoặc CORSIA. Chuyên gia cũng lưu ý tỷ lệ đóng góp cho NDC theo quy định và có thể giữ lại một phần để tham gia vào thị trường carbon trong nước.
Tư vấn cũng ghi nhận sự khác biệt lớn về giá tín chỉ carbon nói chung giữa các loại hình thị trường: thị trường trong nước dự báo khoảng 2-3,7 USD/tCO₂tđ; giao dịch Điều 6 dao động 20-47 USD/tCO₂tđ; cơ chế CORSIA khoảng 21-22 USD/tín chỉ; và thị trường tự nguyện REDD+ quốc tế khoảng 6 USD/tCO₂tđ, thấp hơn đối với tín chỉ có thời gian khởi tạo cũ.
Để tận dụng cơ hội thương mại này, Việt Nam cần thực hiện các công tác giám sát, báo cáo và thẩm định đối với lượng kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ Chương trình trong các kỳ thực hiện và đánh giá khả năng tương thích đối với các tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể để tham gia vào từng loại thị trường.
Bên cạnh các kết quả phân tích, nghiên cứu cũng chỉ ra ba nhóm khoảng trống lớn về pháp lý và thể chế, hạ tầng kỹ thuật, và năng lực thực hiện, đang cản trở khả năng giao dịch tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam, từ đó, đề xuất các giải pháp để tháo gỡ nhằm thúc đẩy thương mại hóa tín chỉ carbon rừng của Việt Nam.
Phát thải CO2 tăng kỷ lục, ô nhiễm không khí, nước biển dâng và các thảm họa thiên nhiên, lũ lụt với tần suất và cường độ ngày càng tăng. Các sự cố thảm họa (như lũ lụt) trước đây xảy ra khoảng 1000 năm một lần thì nay đã tăng lên khoảng 100 năm một lần…Thực tế này đòi hỏi giải pháp, hành động khí hậu kịp thời, cấp thiết cho một tương lai bền vững với những giải pháp phát triển xanh, giảm phát thải, chuyển dịch năng lượng công bằng, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới…
95% rác thải sinh hoạt đô thị, 90% rác thải sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý theo quy định. Dưới 50% rác thải sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng rác thải sinh hoạt được thu gom; trên 50% các bãi chôn lấp rác thải không hợp vệ sinh được cải tạo, phục hồi môi trường; xóa bỏ các "điểm đen" về ô nhiễm môi trường;…
Các siêu đô thị đang chịu áp lực lớn từ khí thải diesel, khi phương tiện vận tải trở thành nguồn phát sinh bụi mịn và nhiều chất độc hại. Những “sát thủ vô hình” này đe dọa sức khỏe cộng đồng, đặt ra yêu cầu cấp bách phải tìm giải pháp giảm phát thải và cải thiện chất lượng không khí…
Tại Việt Nam, năm 2025 được ghi nhận có diễn biến thiên tai, khí tượng thủy văn cực kỳ bất thường và dị thường, gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Ngoài kỷ lục về số lượng bão/áp thấp nhiệt đới, mùa bão năm 2025 còn ghi nhận một số tính chất đặc biệt, bất thường và cực đoan. Sự hoạt động bão bất thường, lũ lớn nghiêm trọng, diện rộng trong năm 2025 cho thấy xu hướng thời tiết ngày càng cực đoan, khó lường do tác động của biến đổi khí hậu...
Trước nhu cầu vốn lên tới 134 tỷ USD để thực hiện Quy hoạch điện 8, Bộ Tài chính và các chuyên gia quốc tế nhận định: nguồn lực công không thể “gánh” toàn bộ mục tiêu phát triển. Vì vậy, việc huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân được xác định là “chìa khóa" then chốt để hiện đại hóa hạ tầng và thúc đẩy chuyển dịch năng lượng bền vững…
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: