
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Bảy, 01/11/2025
Chu Minh Khôi
09/10/2025, 14:19
Việt Nam đang xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon, trong đó tín chỉ carbon rừng sẽ giữ vai trò then chốt. Bộ Tiêu chuẩn cho tín chỉ carbon rừng đang được xây dựng, sẽ không chỉ là một công cụ kỹ thuật trong giảm phát thải khí nhà kính, mà còn là đòn bẩy chính sách quan trọng giúp Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (NetZero) vào năm 2050...
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vừa ra thông báo lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia “Tín chỉ carbon rừng– Yêu cầu chung”.
Theo đó, thực hiện nhiệm vụ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) giao tại Quyết định số 2077/QĐ-BNN-KHCN ngày 26/8/2024, Văn phòng Chứng chỉ rừng Việt Nam đã xây dựng dự thảo tiêu chuẩn trên.
Tín chỉ carbon rừng là chứng nhận có thể giao dịch thương mại, thể hiện quyền phát thải một tấn khí CO₂ hoặc lượng khí tương đương (CO₂e).
Tín chỉ này được tạo ra từ các dự án carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất, bao gồm: REDD+ (Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng carbon rừng); A/R (Trồng rừng mới hoặc xúc tiến tái sinh tự nhiên; IFM-N (Cải thiện rừng tự nhiên nghèo, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh); IFM-P (Cải thiện rừng trồng, nâng cao năng suất, kéo dài chu kỳ khai thác); AFP (Canh tác nông lâm kết hợp, trồng cây thân gỗ phân tán).
Những dự án này không chỉ góp phần giảm phát thải khí nhà kính mà còn giúp bảo vệ đa dạng sinh học, phát triển sinh kế cộng đồng và bảo vệ môi trường. Đây là cách tiếp cận hài hòa giữa lợi ích kinh tế và phát triển bền vững.
Theo dự thảo tiêu chuẩn mới, tín chỉ carbon rừng sẽ được cấp dựa trên các tiêu chí rõ ràng liên quan đến điều kiện, phương pháp đo đạc, thẩm định và xác minh.
Các yêu cầu cụ thể bao gồm: đảm bảo tính bổ sung (nghĩa là lượng giảm phát thải chỉ có thể đạt được thông qua các dự án này); tránh tình trạng trùng lặp với các dự án khác; các dự án phải có hồ sơ pháp lý minh bạch về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch sử dụng rừng; đồng thời, tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển rừng bền vững.
Việc đo đạc và báo cáo lượng phát thải, hấp thụ carbon phải dựa trên phương pháp luận của IPCC (Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu) và tiêu chuẩn quốc gia TCVN 14287:2024, kết hợp dữ liệu điều tra rừng, bản đồ lớp phủ, số liệu thay đổi sử dụng đất. Kế hoạch giám sát được xây dựng chi tiết, báo cáo định kỳ ít nhất hai năm một lần và công bố công khai trên website của chủ dự án để đảm bảo minh bạch.
Dự thảo cũng đã nêu cụ thể, chi tiết yêu cầu cho từng loại dự án. Theo đó, với dự án REDD+: Áp dụng tại rừng tự nhiên vùng đồi núi hoặc rừng ven biển, có giai đoạn tham chiếu trong quá khứ từ 5–10 năm. Giai đoạn tín chỉ tối thiểu 5 năm, có thể gia hạn tối đa hai lần. Ưu tiên dự án cấp vùng, liên tỉnh, có đồng lợi ích về kinh tế, xã hội và đa dạng sinh học.
Dự án A/R (trồng rừng mới): Đất thực hiện dự án không có rừng ít nhất 3 năm trước khi bắt đầu. Giai đoạn tín chỉ tối thiểu 10 năm và có thể gia hạn tối đa hai lần. Ưu tiên trồng cây bản địa, hỗn loài, cây lâm nghiệp có chu kỳ dài để tăng khả năng hấp thụ CO₂ bền vững.
Dự án IFM-N (khoanh nuôi xúc tiến tái sinh): Thực hiện trên rừng tự nhiên nghèo kiệt. Giai đoạn tín chỉ tối thiểu 10 năm, có thể gia hạn 2 lần, đồng thời tuân thủ quy định về khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và trồng bổ sung.
Dự án IFM-P (trồng lại rừng sau khai thác): Áp dụng với rừng trồng sản xuất hiện có hoặc đất rừng sản xuất sau khai thác. Cần có phương án quản lý rừng bền vững được phê duyệt và chứng chỉ rừng bền vững. Giai đoạn tín chỉ tối thiểu 8 năm, có thể gia hạn 2 lần.
Dự án AFP (canh tác nông lâm kết hợp): Triển khai trên đất lâm nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp hoặc nương rẫy vùng đồi núi. Giai đoạn tín chỉ tối thiểu 10 năm và có thể gia hạn tối đa hai lần. Dự án phải tuân thủ quy định về trồng cây phân tán, bảo vệ môi trường và phát triển sinh kế bền vững cho người dân địa phương.
Một yếu tố quan trọng đảm bảo hiệu quả và độ tin cậy của tín chỉ carbon là quy trình giám sát và xác minh độc lập. Tổ chức thực hiện thẩm định – xác minh (VVB) phải có chứng nhận năng lực theo TCVN ISO 14065, được đăng ký hoạt động hợp pháp trong lĩnh vực đánh giá sự phù hợp.
Hồ sơ dự án tín chỉ carbon bao gồm: Tài liệu thiết kế dự án; Báo cáo giám sát định kỳ; Dữ liệu đo đạc, bản đồ và bảng tính phát thải, hấp thụ carbon; Các minh chứng pháp lý liên quan. Tất cả hồ sơ này phải được lưu trữ số hóa, công khai và có thể kiểm chứng, bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xác nhận lượng tín chỉ được phát hành.
Phát triển thị trường carbon rừng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế thông qua mua bán tín chỉ mà còn tạo động lực cho quản lý rừng bền vững, gắn bảo tồn thiên nhiên với sinh kế người dân. Khi được triển khai hiệu quả, đây sẽ là nguồn tài chính xanh hỗ trợ các địa phương bảo vệ rừng, đồng thời đóng góp trực tiếp vào chiến lược quốc gia về giảm phát thải.
Theo Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, việc triển khai các dự án carbon rừng tại Việt Nam vẫn đối mặt nhiều thách thức. Trước hết là yêu cầu đảm bảo tính bổ sung thực sự và không trùng lặp với các chương trình khác. Việc đo đạc, báo cáo, kiểm chứng (MRV) cũng đòi hỏi năng lực kỹ thuật cao, hệ thống dữ liệu đồng bộ và nhân lực chuyên môn.
Ngoài ra, các dự án còn chịu rủi ro rò rỉ và đảo nghịch phát thải, do thiên tai, cháy rừng hoặc dịch bệnh. Để giảm thiểu, các dự án cần lập kế hoạch ứng phó rủi ro và trích lập lượng dự phòng (buffer) – tức một phần tín chỉ được giữ lại, không đưa ra giao dịch, nhằm bù đắp cho các biến động khó lường.
Việt Nam hiện đang hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường carbon trong nước, hướng đến kết nối với thị trường khu vực và toàn cầu. Trong tương lai, cùng với sự phát triển của công nghệ số và các hệ thống giám sát từ xa, thị trường tín chỉ carbon rừng được kỳ vọng mở rộng nhanh chóng, trở thành một trụ cột của kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Khi tất cả các yếu tố này được vận hành đồng bộ, thị trường carbon rừng sẽ không chỉ góp phần chống biến đổi khí hậu mà còn mở ra hướng phát triển xanh, bền vững cho nền kinh tế Việt Nam trong nhiều thập niên tới.
Để hoàn thiện nội dung theo quy định, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm trân trọng mời các nhà khoa học, tổ chức, cá nhân, cán bộ kỹ thuật và quản lý trong lĩnh vực liên quan gửi ý kiến góp ý trong thời gian 60 ngày kể từ ngày đăng thông báo. Văn bản góp ý gửi về Phòng Khoa học, Công nghệ và Hợp tác quốc tế – Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, số 02 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội.
Việt Nam đang xây dựng Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC 3.0) cho giai đoạn 2026- 2035. Việc thực thi các định hướng NDC 3.0 có thể đẩy mạnh tăng trưởng GDP trong dài hạn; là cơ hội cho Việt Nam phát triển tăng trưởng xanh, giảm phát thải. Việt Nam đang nỗ lực hành động đạt NetZero và NDC 3.0 là bước quan trọng để hướng tới mục tiêu này...
Hai Bản ghi nhớ hợp tác (MOU) đã được hai bên đàm phán, ký kết trên nền tảng quan hệ hợp tác chặt chẽ, hiệu quả giữa Bộ Công Thương và các đối tác Vương quốc Anh trong các lĩnh vực thương mại và năng lượng sạch...
Việt Nam và Đan Mạch đang mở rộng hợp tác chuyển đổi xanh sau khi thiết lập Quan hệ Đối tác Chiến lược Xanh (GSP), tạo nền tảng để doanh nghiệp hai nước cùng thúc đẩy tăng trưởng bền vững và các dự án thân thiện môi trường…
Theo đề xuất, mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản đối với cá nhân là 1 tỷ đồng, đối với tổ chức là 2 tỷ đồng...
Một năm sau trận lũ quét lịch sử khiến hơn 200 người thiệt mạng tại vùng Valencia (Tây Ban Nha), các chuyên gia châu Âu vẫn không thôi trăn trở: “Nó có thể xảy ra lần nữa.” Ở cách đó nửa vòng Trái Đất, mưa lũ đang hoành hành tại miền Trung Việt Nam- từ Huế đến Hội An, nhiều khu dân cư ngập sâu trong nước, hàng nghìn người phải sơ tán...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: