Cần nhiều giải pháp hỗ trợ thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ
Vẫn còn không ít doanh nghiệp, nhà đầu tư gặp khó khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, khó khăn trong việc đưa các sản phẩm ra thị trường…
Tại hội thảo “Chuyển đổi số và Đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt Nam”. Sự kiện diễn ra trong khuôn khổ chuỗi hoạt động “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia TECHFEST VIETNAM 2023 - TECHFEST - WHISE 2023” do Bộ Khoa học và Công nghệ, UBND TP.HCM vừa mới tổ chức, ông Trần Xuân Đích, Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho rằng Việt Nam đã thiết lập một hệ thống pháp luật và quy định để hướng dẫn việc đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường, phù hợp với các điều ước quốc tế hiện hành. Tiến trình thương mại hóa tuân thủ tất cả các luật và quy định liên quan cả trong nước và quốc tế.
Theo ông Hoàng Đức Thảo, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Trưởng Làng Sáng chế và Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ là cốt lõi trong hoạt động doanh nghiệp khoa học công nghệ. Cơ chế chính sách ưu tiên phát triển, bảo hộ thị trường hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là bảo hộ công nghệ, sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam sẽ là động lực thúc đẩy phát triển đổi mới sáng tạo, hướng đến làm chủ công nghệ với kỳ vọng làm chủ thị trường trong nước và quốc tế.
Sự ra đời Nghị định 13/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ là một bước đột phá về cơ chế chính sách hỗ trợ hoạt động doanh nghiệp khoa học công nghệ, bao gồm các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, đất đai, tín dụng… giúp doanh nghiệp khoa học và công nghệ có thêm điều kiện để phát triển.
Dù vậy, bên cạnh những tín hiệu tích cực, kết quả khả quan thì các chuyên gia đánh giá vẫn còn không ít doanh nghiệp, nhà đầu tư gặp khó khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, khó khăn trong việc đưa các sản phẩm ra thị trường. Đồng thời, trong quá trình thực thi Nghị định 13/2019, kết quả mang lại cho các doanh nghiệp còn không ít hạn chế.
Khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam với 170 doanh nghiệp hội viên cho thấy, có 11 doanh nghiệp đã cung cấp số liệu được ưu đãi (gồm Busadco, Sao Thái Dương, Minh Long 1, Thái Bình Seed, Tiến Nông, gốm sứ Quang Vinh…) thì tổng số tiền vào khoảng 180 tỷ đồng. Còn lại đa phần là các doanh nghiệp vẫn chưa đủ điều kiện được ưu đãi và chưa thực hiện thủ tục.
Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Hoàng Đức Thảo, kết quả thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ ra thị trường chưa tương xứng với đầu tư và kết quả nghiên cứu. Việc kết nối, chia sẻ hợp tác, chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến không đạt hiệu quả như mục tiêu và nhu cầu phát triển. Không ít doanh nghiệp chưa đặt trọng tâm đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ, để làm nền tảng cốt lõi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững.
Thông tư số 03/2021/TT-BTC hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ quy định tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP, doanh nghiệp khoa học công nghệ được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Tuy nhiên, thủ tục và hồ sơ để thụ hưởng chính sách ưu đãi này theo hướng dẫn tại Thông tư 03 vẫn còn rất phức tạp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận chính sách.
Doanh nghiệp khoa học công nghệ cần được vay vốn ưu đãi, mặc dù có tài sản đảm bảo nhưng không có cơ hội tiếp cận, không biết có tổ chức nào tập huấn, đào tạo và hướng dẫn phương pháp, bước đi cách làm hồ sơ thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến ưu đãi doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Trước thực tế trên, Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam kiến nghị cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật Đấu thầu, theo đó thực thi các quy định về ưu đãi hoạt động đổi mới sáng tạo. Cần tăng cường năng lực hiệu quả của tổ chức Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ để hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ.
Các tổ chức trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cần tăng cường phối hợp với các sở Khoa học và Công nghệ địa phương, tổ chức tập huấn, hướng dẫn, triển khai thực hiện Nghị định 13 về doanh nghiệp khoa học công nghệ, đảm bảo các doanh nghiệp khoa học công nghệ đều được hưởng lợi ích từ nghị định.
Bên cạnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét trình Chính phủ xin chủ trương thiết lập cơ chế chính sách đặc thù, theo hướng xem hoạt động đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là hoạt động đầu tư rủi ro, mạo hiểm cần được bảo trợ chính sách thiệt thực của Nhà nước.
Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra, pháp chế, sở hữu trí tuệ, thẩm định sở hữu trí tuệ trực thuộc Bộ nhằm thống nhất trình tự thủ tục chống xâm phạm và bảo vệ chủ sở hữu, tác giả độc quyền sở hữu trí tuệ, cần xử lý rõ ràng dứt khoát, nhanh chóng kịp thời khi có đơn yêu cầu. Đặc biệt cần có tổ chức đầu mối một cửa tiếp nhận đơn thư.
Đồng thời rà soát lại toàn bộ các cơ chế chính sách nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ hiện hành, trên cơ sở đó đề nghị bổ sung điều chỉnh cơ chế theo hướng xã hội hóa – tạo thị trường cạnh tranh, không phân biệt thành phần, đối tượng…
“Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ có cơ chế ưu tiên rút ngắn thời gian cấp bằng sở hữu trí tuệ, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất thương mại hóa sản phẩm ra thị trường theo hướng quy định chủ sở hữu và tác giả phải cam kết chịu trách nhiệm bồi thường thích đáng nếu có tranh chấp”, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhấn mạnh.
Liên quan đến định hướng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ trong thời gian tới, ông Trần Xuân Đích cho rằng cần xây dựng đề án thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, đưa nhanh kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ ngân sách Nhà nước vào sản xuất, kinh doanh. Trong đó chú trọng chính sách chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học và công nghệ, khuyến khích hợp tác công – tư và đầu tư tư nhân trong các dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ…
Ngoài ra, hỗ trợ không hoàn lại kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ từ các viện, trường. Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được nhận góp vốn bằng quyền tài sản của viện nghiên cứu, trường đại học và tổ chức, cá nhân khác.
TS. Trần Văn Tùng, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cho rằng, một vấn đề cũng rất cần thiết hiện nay là phải xây dựng kho dữ liệu về khoa học công nghệ, sáng chế.
“Nếu chúng ta liên kết tất cả các kho dữ liệu công nghệ, sáng chế lại với nhau, xây dựng một cơ sở dữ liệu lớn về công nghệ thì tất cả những ai cần đến sẽ truy cập vào đó hoàn toàn có thể tìm hiểu, lựa chọn công nghệ phù hợp. Các tỉnh phải là đầu mối cùng với các sở, ban ngành cùng xây dựng được cơ sở dữ liệu. Khi đó Việt Nam mới dần hình thành được hệ thống cơ sở dữ liệu công nghệ và việc quản lý mới thực sự hiệu quả”, ông Tùng nói.