
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Sáu, 10/10/2025
Huyền Vy
29/12/2023, 12:23
Nhờ xu hướng tích cực từ quý 2 nên kết thúc năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn giữ được đà tăng trưởng dương. Đáng chú ý, trong số 33 ngành công nghiệp trọng điểm cấp 2 thì có tới 21 ngành tăng trưởng so với cùng kỳ…
Theo số liệu báo cáo được Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/12, sản xuất công nghiệp quý 4/2023 tăng trưởng tích cực hơn quý 3/2023, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 6,86% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung cả năm 2023, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 3,02% so với năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%, đóng góp 0,93 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,79%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,18%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 3,17%, làm giảm 0,10 điểm phần trăm.
Báo cáo của Tổng cục thống kê cũng cho thấy, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2023 so với năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao, gồm: sản phẩm từ cao su và plastic tăng 13,2%; hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 9,5%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 8,3%; kim loại tăng 7,6%; giường, tủ, bàn, ghế tăng 7,2%; dệt tăng 7%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,1%.
Ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm là phương tiện vận tải khác giảm 10,7%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 5,7%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,2%; xe có động cơ giảm 2,4%; khai thác than cứng và than non giảm 1,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 1,5%; trang phục giảm 0,9%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 0,6%.
Về tình hình sản xuất công nghiệp của các địa phương, báo cáo nêu rõ, chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 so với năm trước tăng ở 50 địa phương và giảm ở 13 địa phương trên cả nước.
Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao là Quảng Ninh tăng 30,3%; Bắc Giang tăng 20,8%; Phú Thọ tăng 18,5%; Nam Định tăng 14,8%; Kiên Giang tăng 14,2%; Hà Nam tăng 13,9%; Hải Phòng tăng 13,4%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao là Khánh Hòa tăng 138,5%; Trà Vinh tăng 40,8%; Ninh Thuận tăng 15,1%; Quảng Ninh tăng 12,9%; Phú Thọ tăng 9,3%.
Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hoặc giảm, gồm: Hòa Bình tăng 0,3%; Quảng Nam giảm 26,8%; Bắc Ninh giảm 11,3%; Vĩnh Long giảm 9,4%; Sóc Trăng giảm 6,1%; Lào Cai giảm 4%; Đà Nẵng giảm 3,7%.
Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện năm 2023 so với năm trước giảm là Sơn La giảm 26,1%; Hà Giang giảm 21,6%; Lai Châu giảm 20,8%; Quảng Nam giảm 18,7%; Hòa Bình giảm 14,7%; Lào Cai giảm 11,1%. Địa phương có ngành khai khoáng năm 2023 so với năm trước giảm: Vĩnh Long giảm 85,8%; Hà Giang giảm 52,8%; Quảng Nam giảm 7,6%.
Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2023 tăng 3,1% so với tháng trước và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,8% so với năm 2022 (năm trước tăng 7,1%).
Về chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2023 giảm 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 13,9%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2023 là 87,5% (năm 2022 là 78,1%).
Đối với tình hình lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2023 tăng 0,9% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% và giảm 3,1%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,6% và giảm 2,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,2% và giảm 2%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 0,3% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1% và giảm 2,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,2% và giảm 1,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,3% và tăng 1,3%.
Việc trái bưởi tươi của Việt Nam chính thức được phép xuất khẩu sang Australia đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hành trình hội nhập quốc tế của ngành nông sản Việt. Đây không chỉ là thành quả của hơn hai năm đàm phán và hoàn thiện hồ sơ kỹ thuật, mà còn là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng của các cơ quan chức năng và doanh nghiệp trong việc nâng cao giá trị nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việt Nam đã thành công trong thu hút đầu tư, thành công trong đàm phán ký kết các FTA, nhưng lợi ích được hưởng trong tiến trình hội nhập chưa như kỳ vọng. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải nâng tầm quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế...
Theo diễn biến của thị trường thế giới, giá xăng dầu trong nước kỳ điều hành ngày 9/10 đã được điều chỉnh giảm khá mạnh. Cụ thể, xăng E5RON92 giảm 486 đồng/lít, xăng RON95-III giảm 480 đồng/lít; các loại dầu cũng có mức giảm từ 434 đồng/lít - 571 đồng/lít…
Chính sách thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến đang trở thành rào cản đáng kể, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của ngành. Việc chưa có hướng dẫn cụ thể đang khiến các doanh nghiệp lúng túng trong kê khai thuế, hàng nghìn tỷ đồng bị ứ đọng, làm giảm nguồn vốn lưu động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ sản xuất, giao hàng và xuất khẩu…
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: