Đại biểu Quốc hội đề nghị giữ nguyên mức đóng 2% kinh phí công đoàn
Nhất trí với quy định về tài chính Công đoàn và công tác quản lý, sử dụng tài chính Công đoàn, các đại biểu Quốc hội cho rằng việc tiếp tục quy định thu kinh phí Công đoàn bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là phù hợp. Đây là điều kiện tiên quyết để Công đoàn chủ động, độc lập hơn trong tổ chức và hoạt động tại cơ sở...
Ngày 18/6, thảo luận tại hội trường về dự án Luật Công đoàn (sửa đổi), về quản lý sử dụng tài chính công đoàn (Điều 30), tại khoản 2, đại biểu Âu Thị Mai, đoàn Tuyên Quang, thống nhất chọn phương án 1: “Tại những nơi đã có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, kinh phí công đoàn theo điểm b khoản 1 Điều 29 được phân phối cho các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở theo quy định của Chính phủ”.
Phân tích lý do, đại biểu cho rằng dự thảo Luật đã kế thừa và giữ nguyên đối tượng, mức đóng 2% kinh phí công đoàn theo quy định hiện hành. Việc giữ ổn định quy định và nghĩa vụ nộp kinh phí công đoàn 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thực hiện từ năm 1957 cho đến nay nhằm đảm bảo phúc lợi ổn định cho người lao động góp phần làm cho tổ chức công đoàn thực hiện tốt chức năng đại diện chăm lo bảo vệ cho đoàn viên người lao động. Đặc biệt điều này cũng phù hợp với tinh thần Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức công đoàn Việt Nam trong tình hình mới.
Điều này cũng tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; duy trì các nguồn lực hiện có; thu kinh phí công đoàn và khuyến khích xã hội hoá nguồn lực để công đoàn thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Về công khai tài chính công đoàn, dự thảo Luật quy định các cấp công đoàn thực hiện công khai tài chính hàng năm tại hội nghị Ban chấp hành công đoàn và bằng hình thức niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan tổ chức, đơn vị, phát hành ấn phẩm hoặc thông báo bằng văn bản tới cơ quan tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan, đưa lên trang thông tin điện tử thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Song bà Mai nhìn nhận việc công khai tài chính của các cấp công đoàn trên các phương tiện thông tin đại chúng là không phù hợp do đó ban soạn thảo cần cân nhắc vấn đề trên.
Để việc công khai tài chính đạt hiệu quả cao, đảm bảo tính công khai minh bạch, bà Mai đề nghị ban soạn thảo quy định việc công khai tài chính hàng năm cần được tổ chức thông qua hội nghị toàn thể đoàn viên công đoàn của cơ quan, tổ chức đơn vị để đoàn viên công đoàn được nắm và trao đổi khi cần thiết, bởi nếu chỉ quy định các hình thức như dự thảo Luật thì vì nhiều lý do khác nhau đoàn viên công đoàn sẽ không tiếp cận được thông tin về tài chính công đoàn.
Về nguồn tài chính công đoàn tại điều 29 dự thảo Luật, Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, đoàn Hải Dương, cũng tán thành việc quy định kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Đây là nội dung đã thực hiện ổn định, lâu dài nhiều năm, không phát sinh vướng mắc trên thực tế.
Liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công đoàn tại điều 30 dự thảo, bà Nga lưu ý đây là nội dung rất quan trọng. Vì vậy, nên quy định ngay trong dự thảo luật.
Bà Nga cũng nêu quan điểm, việc quy định cụ thể tỷ lệ phân phối kinh phí công đoàn là cần thiết nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong việc sử dụng tài chính công đoàn. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho việc tăng cường bố trí nguồn kinh phí công đoàn cho các hoạt động của công đoàn cơ sở là nơi trực tiếp chăm lo cho đời sống của người lao động thì nên có sự linh hoạt trong việc quy định tỷ lệ phân bổ kinh phí công đoàn, không quy định cứng tỷ lệ 25% và 75% như khoản 2 Điều 30 dự thảo mà chỉ nên quy định đó là tỷ lệ “tối thiểu” và tỷ lệ “tối đa”.
“Cần xem xét quy định kinh phí công đoàn theo điểm b khoản 1 điều 29 do công đoàn cấp trên quản lý, sử dụng tối đa 25%, còn lại được phân phối cho công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”, bà Nga đề nghị.
Trong dự thảo cũng quy định phân bổ kinh phí cho công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Tại điểm b khoản 2 Điều 30 quy định "ở doanh nghiệp chỉ có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp thì tổ chức này được phân phối theo số thành viên trên số lao động thu được kinh phí công đoàn".
Theo bà Nga, quy định như vậy chưa làm rõ trong trường hợp này, số tiền còn lại sau khi phân phối cho tổ chức của người lao động thì sẽ được tiếp tục phân phối, sử dụng như thế nào? Do vậy đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu làm rõ và bổ sung thêm.
Đánh giá cao những sửa đổi, bổ sung của dự thảo luật, đại biểu Nguyễn Phi Thường, đoàn Tp.Hà Nội, cho rằng dự thảo Luật lần này cũng đã thể chế hóa tương đối đầy đủ những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và những cam kết quốc tế của Việt Nam.
Nhất trí với quy định về tài chính Công đoàn và công tác quản lý, sử dụng tài chính Công đoàn (Điều 29, Điều 30), đại biểu đoàn Hà Nội nhấn mạnh, việc tiếp tục quy định thu kinh phí Công đoàn bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là phù hợp. Theo đại biểu, đây là điều kiện tiên quyết để Công đoàn chủ động, độc lập hơn trong tổ chức và hoạt động tại cơ sở.
Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Phi Thường cho rằng nên giao cho Chính phủ thống nhất quy định cụ thể về công tác thu, quản lý, sử dụng nguồn tài chính Công đoàn; Không chỉ có đối với tổ chức “Đại diện của người lao động” như điểm d, khoản 2 Điều 30. Việc này sẽ giúp cho công tác quản lý nhà nước về tài chính Công đoàn sẽ minh bạch, chặt chẽ và hiệu quả hơn, tránh được thất thoát, lãng phí. Đồng thời cũng khắc phục được tình trạng chủ doanh nghiệp can thiệp quá sâu vào hoạt động thu, chi tài chính của Công đoàn.
Như vậy, Nhà nước sẽ thống nhất quản lý nhà nước về thu, quản lý, sử dụng tài chính Công đoàn (bao gồm cả kinh phí và đoàn phí công đoàn), Tổng Liên đoàn sẽ hướng dẫn triển khai, thực hiện; thay vì phải thực hiện cả quy định của Chính phủ và cả quy định của Tổng Liên đoàn, như trong dự thảo (Khoản 1, Điều 30), đại biểu Thường góp ý.