Dân số thành thị của Việt Nam đang tăng nhanh
Dân số thành thị đã tăng với tốc độ trung bình là 3,4% mỗi năm trong khi tốc độ này ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4% mỗi năm
Kết quả điều tra toàn bộ của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 được Tổng cục Thống kê công bố sáng nay (21/7) cho thấy dân số thành thị tại Việt Nam đang tăng nhanh.
Trong 10 năm qua (1999 - 2009), dân số Việt Nam tăng thêm 9,523 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 952 nghìn người. Có ba tỉnh, thành phố có quy mô dân số lớn hơn 3 triệu người, đó là Tp.HCM với 7,163 triệu người, Hà Nội 6,452 triệu người và Thanh Hóa là 3,401 triệu người. Năm tỉnh có dân số dưới 500.000 người là Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Kon Tum và Đắc Nông.
Tổng số dân của Việt Nam tính đến ngày 1/4/2009 là 85.846.997 người, bao gồm 42.413.143 nam (chiếm 49,4%) và 43.433.854 nữ (chiếm 50,6%). Kết quả điều tra cũng phản ánh một thực tế, dân số thành thị đang tăng nhanh.
Cụ thể, dân cư ở khu vực thành thị là 25.436.896 người, chiếm 29,6% tổng dân số cả nước. Trong khi đó, dân số nông thôn là 60.410.101 người, chiếm 70,4% trong tổng dân số. Như vậy, dân số thành thị đã tăng với tốc độ trung bình là 3,4% mỗi năm trong khi tốc độ này ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4% mỗi năm.
Nguyên nhân chính khiến dân số thành thị tăng nhanh được nhìn nhận là do sự mở rộng của thị trường lao động đã tác động tới lượng dân di cư.
Thời kỳ di cư mạnh nhất là giai đoạn 2004 - 2009 do lượng khu chế xuất, khu công nghiệp được mở ra ở nhiều nơi. Trong quãng thời gian này, lượng di cư tới địa bàn hành chính cùng cấp huyện tăng 275.000 người, di cư cùng tỉnh tăng 571.000 người, di cư khác tỉnh tăng 1,4 triệu người và di cư khác vùng tăng hơn 1 triệu người.
Ông Đỗ Thức, quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho rằng, dân cư thành thị tăng nhanh chóng đang gây các áp lực đảm bảo các điều kiện sống cho người nhập cư như nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, quy hoạch đô thị và môi trường.
Về nhà ở, kết quả điều tra cho thấy đã có sự cải thiện đáng kể. Trong những hộ gia đình có nhà ở, số hộ có nhà kiên cố chiếm 46,3%, nhà bán kiên cố chiếm 37,9%, nhà thiếu kiến cố chiếm 8,0% và nhà đơn sơ chiếm 7,8%.
Tỷ trọng hộ gia đình có nhà ở với diện tích sử dụng dưới 15m2 sau 10 năm qua tăng không đáng kể.
Năm 1999 có 2,2% số hộ gia đình đang sinh hoạt trong diện tích nhà ở chật hẹp dưới 15m2 và đến năm 2009 tỷ lệ này là 2,4%.
Trong khi đó, số hộ gia đình sử dụng diện tích nhà ở rộng hơn 60m2 đã tăng nhanh, năm 1999 là 24,2% hộ gia đình và tới năm 2009 con số này là 51,5%.
Diện tích nhà ở bình quân đầu người trung bình của cả nước đạt 16,7m2. Trong đó, khu vực thành thị là 19,2 m2/người và ở nông thôn là 15,7m2/người.
Trong giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên đã tăng khá nhanh, từ 90,3% năm 1999 lên 94,0% năm 2009. Kết quả này cũng cho thấy hiện chỉ có chưa đến 4 triệu người chưa từng đi học, chiếm 5,0% tổng dân số từ 5 tuổi trở lên.
Trong 10 năm qua (1999 - 2009), dân số Việt Nam tăng thêm 9,523 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 952 nghìn người. Có ba tỉnh, thành phố có quy mô dân số lớn hơn 3 triệu người, đó là Tp.HCM với 7,163 triệu người, Hà Nội 6,452 triệu người và Thanh Hóa là 3,401 triệu người. Năm tỉnh có dân số dưới 500.000 người là Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Kon Tum và Đắc Nông.
Tổng số dân của Việt Nam tính đến ngày 1/4/2009 là 85.846.997 người, bao gồm 42.413.143 nam (chiếm 49,4%) và 43.433.854 nữ (chiếm 50,6%). Kết quả điều tra cũng phản ánh một thực tế, dân số thành thị đang tăng nhanh.
Cụ thể, dân cư ở khu vực thành thị là 25.436.896 người, chiếm 29,6% tổng dân số cả nước. Trong khi đó, dân số nông thôn là 60.410.101 người, chiếm 70,4% trong tổng dân số. Như vậy, dân số thành thị đã tăng với tốc độ trung bình là 3,4% mỗi năm trong khi tốc độ này ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4% mỗi năm.
Nguyên nhân chính khiến dân số thành thị tăng nhanh được nhìn nhận là do sự mở rộng của thị trường lao động đã tác động tới lượng dân di cư.
Thời kỳ di cư mạnh nhất là giai đoạn 2004 - 2009 do lượng khu chế xuất, khu công nghiệp được mở ra ở nhiều nơi. Trong quãng thời gian này, lượng di cư tới địa bàn hành chính cùng cấp huyện tăng 275.000 người, di cư cùng tỉnh tăng 571.000 người, di cư khác tỉnh tăng 1,4 triệu người và di cư khác vùng tăng hơn 1 triệu người.
Ông Đỗ Thức, quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho rằng, dân cư thành thị tăng nhanh chóng đang gây các áp lực đảm bảo các điều kiện sống cho người nhập cư như nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, quy hoạch đô thị và môi trường.
Về nhà ở, kết quả điều tra cho thấy đã có sự cải thiện đáng kể. Trong những hộ gia đình có nhà ở, số hộ có nhà kiên cố chiếm 46,3%, nhà bán kiên cố chiếm 37,9%, nhà thiếu kiến cố chiếm 8,0% và nhà đơn sơ chiếm 7,8%.
Tỷ trọng hộ gia đình có nhà ở với diện tích sử dụng dưới 15m2 sau 10 năm qua tăng không đáng kể.
Năm 1999 có 2,2% số hộ gia đình đang sinh hoạt trong diện tích nhà ở chật hẹp dưới 15m2 và đến năm 2009 tỷ lệ này là 2,4%.
Trong khi đó, số hộ gia đình sử dụng diện tích nhà ở rộng hơn 60m2 đã tăng nhanh, năm 1999 là 24,2% hộ gia đình và tới năm 2009 con số này là 51,5%.
Diện tích nhà ở bình quân đầu người trung bình của cả nước đạt 16,7m2. Trong đó, khu vực thành thị là 19,2 m2/người và ở nông thôn là 15,7m2/người.
Trong giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên đã tăng khá nhanh, từ 90,3% năm 1999 lên 94,0% năm 2009. Kết quả này cũng cho thấy hiện chỉ có chưa đến 4 triệu người chưa từng đi học, chiếm 5,0% tổng dân số từ 5 tuổi trở lên.