
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Tư, 22/10/2025
Quỳnh Lam
13/11/2007, 09:49
Nguồn lao động xuất khẩu nước ta phần lớn xuất thân là nông dân, họ được gọi là những lao động “3 không”
Mặc dù 10 tháng đầu năm 2007, cả nước đã đưa đư
ợ
c gần 70.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, thế nhưng nhiều doanh nghiệp lại cho rằng, thật khó khăn khi tạo được nguồn lao động trong thời buổi này.
Không mặn mà “xuất ngoại”
Theo danh sách của Cục Quản lý lao động ngoài nước cung cấp, hiện có 150 đơn vị được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, con số trên thực tế cao hơn rất nhiều.
Bằng chứng là tại các địa phương, trung tâm môi giới xuất khẩu lao động có thời kỳ mọc lên như nấm sau mưa, thậm chí, hình thành mà không cần xin phép. Thế mới có chuyện một tỉnh sau khi rà soát, kiểm tra, đã phát hiện hơn 40 trung tâm môi giới xuất khẩu lao động kiểu này.
Ông Nguyễn Xuân Vui, Giám đốc Trung tâm Xuất khẩu lao động Airsenco cho biết, cách đây hơn một năm, doanh nghiệp c
òn
khá dễ dàng trong công tác tạo nguồn lao
đ
ộng
, hoặc thâm nhập thị trường, tìm kiếm hợp đồng từ đối tác.
Cụ thể, những năm 2005, 2006, trung bình một doanh nghiệp đưa được 600 - 1.000 lao động đi làm việc ở các nước, thậm chí một số doanh nghiệp còn đưa được 2.000 người.
Bắt đầu từ đầu năm nay, công việc này xem ra rất khó khăn với các doanh nghiệp. Chỉ có một lượng rất ít các doanh nghiệp tên tuổi đưa
đi
được trên dưới 1.000 người, còn phần lớn các doanh nghiệp khác chỉ đưa được khoảng 200 - 400 người.
Thông tin từ nhiều địa phương cũng cho thấy, công tác xuất khẩu lao động hiện đang bị chùng xuống.
Theo ông Nguyễn Xuân Thông, Trưởng phòng Chính sách lao động, Sở Lao động - Thương binh v
à X
ã hội Hà Tĩnh, hiện tỉnh này đang có 14 đơn vị đăng ký tạo nguồn trực tiếp. Th
ế nh
ưng
, một năm trở lại nay người lao động xem ra không mấy mặn mà với việc “xuất ngoại”.
Một trong những lý do dẫn đến việc khan hiếm nguồn lao động xuất khẩu, theo ông Thông, chính là sự ra đời một cách vô tội vạ các trung tâm môi giới, dẫn đến việc tạo nguồn quá dễ dãi, chất lượng lao động kém, thu nhập thấp, không hấp dẫn được người lao động.
Ngoài ra, gần đây xuất hiện rất nhiều thông tin về các sự cố mà người lao động Việt Nam gặp phải trong thời gian làm việc ở nước ngoài (như đình công ở Malaysia, bỏ trốn ở Đài Loan và đánh nhau ở Trung Đông)… Vì thế, người lao động phần nào cảm thấy bất an khi có ý định đi làm việc ở nước ngoài.
Th
êm v
ào
đó là thực trạng lừa đảo xuất khẩu lao động cũng khiến không ít lao động hoang mang với tâm lý sợ “tiền mất, tật mang”.
Hậu quả của việc “hết nạc v
ạ
c đến xương”
Sự khan hiếm nguồn lực dẫn đến tình trạng tuyển dụng, đào tạo dễ dãi, miễn sao có lao động để cung ứng c
ũng
dẫn đến chất lượng lao động ngày càng thấp.
Theo ông Đào Công Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, xuất khẩu lao động cũng giống như xuất khẩu một mặt hàng nào đó, khi hàng có chất lượng thì giá trị của nó cũng theo đó mà cao lên, mức lương mà họ được hưởng sẽ cao và ngược lại.
Trong khi đó, nguồn lao động xuất khẩu nước ta phần lớn xuất thân là nông dân, họ được g
ọi
là những lao động “3 không” ( không nghề, không ngoại ngữ, không ý thức và tác phong công nghiệp). Sau khi đăng ký đi xuất khẩu lao động, họ mới được học một khóa nghề và ngoại ngữ cấp tốc.
Vậy nhưng, trên thực tế không phải doanh nghiệp xuất khẩu lao động nào cũng có thể đầu tư cho việc đào tạo một cách bài bản. Vì thế, rất nhiều lao động sau khi được doanh nghiệp đào tạo vẫn không đáp ứng được yêu cầu của đối tác.
Ông Hải lấy ví dụ với thị trường Canada,
Australia
, Mỹ… vốn rất được kỳ vọng, tuy nhiên, để sang được các thị trường này đòi hỏi lao động phải có một trình độ nghề và ngoại ngữ khá cao. Vì thế, mặc dù nhiều doanh nghiệp đã triển khai việc tuyển chọn, đào tạo lao động cho các thị trường này từ khá lâu, nhưng số đạt tiêu chuẩn, được đối tác nước ngoài tuyển chọn chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp không tạo được đủ nguồn, tự ý “nới lỏng” điều kiện cho người lao động, đã bị “tắc” ở khâu làm visa. Điều đó không những gây thiệt hại về kinh tế cho người lao động, bản thân doanh nghiệp mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín lao động quốc gia.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hướng dẫn làm rõ một số nội dung về đối tượng áp dụng; cách xác định thời gian, tiền lương hưởng chính sách; thời gian chi trả chế độ đối với cán bộ công đoàn chuyên trách nghỉ việc do sắp xếp bộ máy...
Dự thảo Luật Viên chức (sửa đổi) trình Quốc hội đề xuất mở rộng quyền của viên chức. Theo đó, cho phép họ được ký hợp đồng thực hiện hoạt động nghề nghiệp, tham gia góp vốn, điều hành các doanh nghiệp nếu pháp luật về phòng chống tham nhũng không cấm, hoặc pháp luật chuyên ngành không có quy định khác...
Sáng 22/10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội làm việc tại Hội trường, nghe Báo cáo thẩm tra và Tờ trình các dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi)...
Dựa trên dữ liệu mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), đồ thị dưới đây thể hiện các quốc gia có lực lượng lao động đông đảo nhất, cho thấy những khu vực tập trung đông người lao động trên toàn cầu...
Từ mô hình trường học giảm nhựa được triển khai hiệu quả tại thành phố Huế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục mở rộng sáng kiến “Trường học sinh thái ASEAN – Trường học không rác thải nhựa”, hướng đến mục tiêu hình thành văn hóa xanh trong giáo dục Việt Nam và khu vực...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: