
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Tư, 22/10/2025
Vũ Khuê
22/10/2025, 19:01
Việt Nam đang khát khao chuyển mình, lấy khoa học và công nghệ làm động lực cốt lõi. Dù đã có những bước tiến vững chắc trong việc hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nhưng dòng chảy tri thức vẫn đang bị kìm hãm bởi những “điểm nghẽn” thể chế quen mà không cũ…
Sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt trong kỷ nguyên kinh tế tri thức, gắn liền mật thiết với năng lực sáng tạo và ứng dụng khoa học và công nghệ. Bộ Khoa học và Công nghệ đang định hình một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện. Hệ sinh thái này được kiến tạo để "mỗi viện nghiên cứu, mỗi doanh nghiệp, mỗi cán bộ kỹ sư đều được khuyến khích nghĩ khác, làm mới, và dám thử thách”.
Từ thực tiễn đó, nhiều tổ chức khoa học và công nghệ đã đạt được những bước tiến đáng kể. Các viện chuyên ngành như cơ khí, hóa chất, năng lượng, vật liệu, tự động hóa... đang trở thành điểm kết nối hiệu quả giữa nghiên cứu và sản xuất. Những thành tựu này đã được thương mại hóa, bao gồm công nghệ mới, giải pháp tiết kiệm năng lượng, sản phẩm xanh, vật liệu tiên tiến và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất. Đây là những nền tảng quan trọng góp phần "hình thành nền công nghiệp Việt Nam tự chủ, xanh và thông minh hơn”.
ĐIỂM NGHẼN THỂ CHẾ LÀM LÃNG PHÍ NGUỒN LỰC
Tuy nhiên, tại tọa đàm “Gỡ điểm nghẽn thể chế - Khơi thông nguồn lực phát triển khoa học, công nghệ” diễn ra ngày 22/10/2025, nhiều ý kiến cho rằng dù đã có những kết quả tích cực, chúng ta vẫn đang đối diện với “điểm nghẽn thể chế” – một cụm từ quen mà không cũ. Tiềm năng đổi mới là rất lớn, nhưng không gian để phát triển lại bị giới hạn bởi chính hành lang pháp lý chưa đủ độ mở, thiếu linh hoạt.
Các diễn giả đều đồng tình rằng chính sách dù đã được cởi mở hơn, nhưng vẫn còn tồn tại những “nút thắt” khiến quá trình chuyển hóa tri thức thành giá trị kinh tế bị trì hoãn, làm lãng phí nguồn lực và thời gian của nhà khoa học. Các điểm nghẽn này tập trung ở các cơ chế tài chính, thủ tục phê duyệt, cơ chế đặt hàng nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm.
Đầu tiên là cơ chế tài chính. Cơ chế tài chính cho nghiên cứu khoa học và công nghệ là nút thắt được đề cập nhiều nhất. Sự thiếu linh hoạt trong việc quản lý chi tiêu và thủ tục thanh quyết toán rườm rà đang gây cản trở lớn.
Chia sẻ từ góc độ quản lý một đơn vị nghiên cứu ứng dụng, PGS.TS Vũ Nguyên Thành, Viện trưởng Viện Công nghiệp thực phẩm, cho rằng trong một thời gian dài mô hình cũng như tư duy về quản lý tài chính khoa học công nghệ, tư duy về đầu tư khoa học công nghệ của chúng ta chưa phù hợp. Mô hình mà các Viện nghiên cứu phải tự chủ về tài chính, vì tự chủ nên các viện nghiên cứu sẽ phải lo đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động. Do vậy, các viện sẽ không tập trung được vào các lĩnh vực nghiên cứu có thế mạnh hoặc thực sự quan tâm.
Tiếp theo là cách đặt hàng cho nghiên cứu hiện nay theo mô hình đấu thầu cạnh tranh và các viện sẽ phải cạnh tranh các gói thầu. Điều này dẫn tới sự thiếu nhất quán trong hoạt động nghiên cứu, đơn cử như năm nay thì viện làm lĩnh vực này năm sau nếu mà thắng thầu lại làm lĩnh vực khác. Do đó, sẽ làm giảm năng lực của viện trong lĩnh vực là thế mạnh.
Hơn nữa, chúng ta rất mong muốn có sản phẩm để chuyển giao cho xã hội, cho nên nghiên cứu khoa học theo định hướng sản phẩm và trong thời gian rất ngắn. Vì sự nóng vội này nên các sản phẩm sẽ không đủ “chín”, phần lớn các sản phẩm ở trạng thái chưa hoàn thiện, không thể chuyển giao trực tiếp cho doanh nghiệp được.
Nút thắt nữa nằm ở thủ tục phê duyệt và cơ chế đặt hàng nghiên cứu. Tốc độ phát triển công nghệ là vũ bão, nhưng thủ tục phê duyệt đề tài lại kéo dài.
TS Phạm Duy Phong, Trưởng khoa Điện tử Viễn thông, Trường Đại học Điện lực đã nhấn mạnh rằng một đề tài được duyệt có thể mất một đến hai năm, trong khi công nghệ thế giới đã thay đổi. Sự chậm trễ này khiến nghiên cứu không còn tính thời sự, giảm khả năng ứng dụng thực tế.
Bên cạnh đó, cơ chế đặt hàng nghiên cứu từ Nhà nước hiện tại chưa thực sự theo sát nhu cầu thị trường và doanh nghiệp. Nhiều nghiên cứu mang tính học thuật cao nhưng lại không tìm được đầu ra ứng dụng, dẫn đến tình trạng "nghiên cứu xong để đó" gây lãng phí nguồn lực.
Vấn đề thương mại hóa kết quả nghiên cứu và quyền sở hữu trí tuệ là một rào cản mang tính chất dai dẳng. TS Phùng Ngọc Bộ, Trưởng Ban Kỹ thuật, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, đã đề cập đến khó khăn trong việc tiếp nhận và ứng dụng kết quả từ các viện nghiên cứu khi quyền sở hữu không rõ ràng.
Việc xác định ai là chủ sở hữu, cơ chế phân chia lợi ích giữa nhà khoa học, cơ quan chủ trì, và Nhà nước không minh bạch hoặc thiếu hấp dẫn khiến nhà khoa học thiếu động lực để đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao, kìm hãm khả năng các nghiên cứu chất lượng cao trở thành hàng hóa, dịch vụ có giá trị kinh tế.
KHƠI THÔNG DÒNG CHẢY NGUỒN LỰC VÀ SÁNG TẠO
Để vượt qua những rào cản trên, các diễn giả đều thống nhất rằng việc tháo gỡ thể chế không chỉ là hành động sửa chữa luật pháp, mà là một tuyên ngôn về niềm tin, là bước đi chiến lược quyết định thành công của quá trình đổi mới sáng tạo quốc gia.
Giải pháp cốt lõi phải nằm ở việc thay đổi triết lý quản lý tài chính và khoa học. Thay vì kiểm soát chặt chẽ từng khoản chi, Nhà nước cần trao quyền tự chủ cao hơn cho các tổ chức khoa học - công nghệ và nhà khoa học.
Đồng thời tăng cường cơ chế khoán chi. Cần chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế khoán chi theo kết quả, dựa trên sản phẩm, chất lượng khoa học và khả năng ứng dụng thực tế, thay vì kiểm soát chi tiết hóa đơn đầu vào. Điều này giúp các đơn vị chủ trì, như Viện Công nghiệp thực phẩm có thể linh hoạt điều chỉnh kinh phí phát sinh trong quá trình thử nghiệm và nghiên cứu, phù hợp với bản chất của hoạt động sáng tạo.
Mặt khác, đơn giản hóa thủ tục, cần điện tử hóa, số hóa toàn bộ quy trình phê duyệt và thanh quyết toán, giảm thiểu tối đa các loại giấy tờ hành chính không cần thiết.
Để khắc phục tình trạng "nghiên cứu xong để đó" và thúc đẩy ứng dụng công nghệ, cần có các cơ chế mới như tăng cường vai trò của doanh nghiệp. Theo TS Phùng Ngọc Bộ, đảm bảo doanh nghiệp tham gia ngay từ khâu định hướng nghiên cứu, cùng định hình các bài toán công nghệ sẽ tạo ra cơ chế đặt hàng nghiên cứu gắn chặt với nhu cầu thị trường, đảm bảo kết quả có ngay đầu ra ứng dụng.
Cùng với đó, luật hóa quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, phải làm rõ ràng và minh bạch quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước. Cần trao quyền sở hữu chính cho tổ chức chủ trì hoặc nhà khoa học để họ chủ động thương mại hóa. Nhà nước nên thu lợi nhuận thông qua thuế hoặc phần trăm doanh thu, thay vì giữ quyền sở hữu, làm giảm động lực chuyển giao.
Doanh nghiệp do nữ làm chủ muốn có bước đột phá, cần mạnh dạn ứng dụng công nghệ vào mọi khía cạnh hoạt động. Các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế xanh... đang mở ra không gian phát triển không giới hạn...
Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” đặt mục tiêu đến năm 2035, ngành trồng trọt giảm ít nhất 15% tổng phát thải khí nhà kính so với năm 2020; xây dựng nhãn hiệu “Phát thải thấp” cho nông sản; và mỗi tỉnh hình thành ít nhất một mô hình sản xuất giảm phát thải, cùng 15 mô hình thí điểm tín chỉ carbon đạt chuẩn quốc tế...
Khép lại giai đoạn 5 năm (2020–2025), dự án ASSET đã xác lập nền tảng vững chắc cho việc mở rộng quy mô các thực hành nông nghiệp sinh thái, củng cố đối thoại chính sách và tăng cường năng lực nghiên cứu – đào tạo tại Việt Nam. Qua đó, đã góp phần vào xây dựng hệ thống lương thực bền vững, sản xuất nông nghiệp giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu...
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam (VINAFRUIT), ước tính sơ bộ trong tháng 10/2025, xuất khẩu rau quả sẽ đạt 919 triệu USD, tăng 77% so với cùng kỳ năm 2024. Ước tính kim ngạch trong 10 tháng vượt 7 tỉ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.
Kế hoạch hành động tháng cao điểm chống khai thác hải sản bất hợp pháp không chỉ là một bước đi quan trọng trong việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản, mà còn thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc phát triển bền vững ngành thủy sản...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: