Để Việt Nam không còn lao động giá rẻ
Việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành vấn đề cấp thiết khi Việt Nam chuẩn bị bước vào một kỷ nguyên phát triển mới. Giáo dục nghề nghiệp được kỳ vọng sẽ đóng vai trò quan trọng để cung cấp lao động chất lượng cao cho doanh nghiệp trong và ngoài nước...
VnEconomy có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Tiến Đông, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ, về thực trạng, thách thức và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.
75% LAO ĐỘNG CHƯA QUA ĐÀO TẠO KỸ NĂNG
Thưa Phó Giáo sư, Việt Nam đang chuẩn bị bước vào một kỷ nguyên phát triển mới. Để làm được điều đó, nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt. Ông đánh giá thế nào về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, đặc biệt khi so sánh với chất lượng đào tạo?
Đây là một chủ đề rất nóng hiện nay. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO) năm 2024, Việt Nam hiện có hơn 53 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 53% dân số.
Tuy nhiên, tính đến hết năm 2024, chỉ có khoảng 71.6% trong số này – tức là khoảng 38 triệu người – chưa qua đào tạo kỹ năng phù hợp với yêu cầu công việc hiện đại. Con số này giảm nhẹ so với mức 77% cách đây 5 năm, nhưng vẫn là một thách thức lớn khi chúng ta so sánh với các nước trong khu vực như Thái Lan (60%) hay Malaysia (55%).

Gần đây, tại hội thảo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37 của Ban Bí thư về đào tạo nhân lực chất lượng cao vào tháng 11/2024, chúng tôi đã thảo luận sôi nổi về việc định nghĩa "chất lượng cao" là gì. Với khối giáo dục đại học, tiêu chí có thể là bằng cấp và nghiên cứu, nhưng với giáo dục nghề nghiệp như tại Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ, chúng tôi xác định đó là lao động lành nghề, có kỹ năng thực tiễn đáp ứng tốt yêu cầu công việc.
Tuy nhiên, khi khái niệm này chưa được thống nhất với các tiêu chí cụ thể – ví dụ, mức độ thành thạo kỹ năng hay năng suất lao động – thì việc xây dựng chương trình đào tạo hiệu quả vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chúng ta cần trả lời rõ: Đào tạo cái gì, đào tạo như thế nào, và cho đối tượng nào để đáp ứng các ngành nghề cụ thể như công nghệ bán dẫn hay chuyển đổi số?
Việt Nam từng thu hút đầu tư nước ngoài bằng khẩu hiệu "nhân lực giá rẻ". Theo ông, trong bối cảnh hiện nay, tư duy này tác động thế nào đến sự phát triển và thu hút đầu tư? Chúng ta sẽ phải trả giá gì nếu tiếp tục giữ định hướng này?
Thực ra, chúng ta đã và đang trả giá cho tư duy "nhân lực giá rẻ" rồi. Việt Nam từng mời gọi các doanh nghiệp FDI với lợi thế này, và kết quả là từ năm 2010 đến 2023, vốn FDI đăng ký đạt hơn 438 tỷ USD. Nhưng giai đoạn dân số vàng của chúng ta sẽ kết thúc vào năm 2035, khi tỷ lệ người trong độ tuổi lao động giảm từ 68% hiện nay xuống còn khoảng 60%, theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp giờ đây không còn cần lao động phổ thông giá rẻ nữa mà đòi hỏi lao động có kỹ năng.
Tôi lấy ví dụ tại Bắc Ninh – nơi có hơn 1,2 triệu lao động trong các khu công nghiệp, theo thống kê của tỉnh năm 2023. Lao động phổ thông khoảng 35 - 38 tuổi thường bị sa thải vì không đáp ứng được yêu cầu công nghệ mới – chẳng hạn, vận hành máy móc tự động hóa hay lập trình cơ bản. Sau đó, các doanh nghiệp FDI mới vào Bắc Giang lại tuyển lại những lao động này để lấp chỗ trống tạm thời, nhưng chỉ trong thời gian ngắn.
Điều này cho thấy tuổi nghề của lao động không kỹ năng chỉ kéo dài khoảng 10-15 năm. Hiện nay, theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2024, 62% doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cho biết họ ưu tiên tuyển lao động đã qua đào tạo nghề, tăng mạnh so với mức 45% cách đây 5 năm.
Nếu tiếp tục quảng bá nhân lực giá rẻ mà không nâng cao kỹ năng, chúng ta sẽ mất dần sức hút với các nhà đầu tư. Đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long, nơi đang triển khai các dự án công nghệ cao như sản xuất chip bán dẫn với tổng vốn FDI dự kiến hơn 8 tỷ USD trong giai đoạn 2025-2030, doanh nghiệp luôn hỏi: "Quanh đây có đơn vị nào cung cấp được lao động chất lượng cao không?" Nếu không đáp ứng, Việt Nam có nguy cơ bị các nước như Indonesia hay Philippines – nơi tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt lần lượt 40% và 45% – cạnh tranh trong việc thu hút FDI.
Để đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp, Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ đã triển khai mô hình đào tạo như thế nào, thưa ông?
Chúng tôi áp dụng mô hình đào tạo song hành "1+1+1" với hai cách triển khai.
Thứ nhất, trong nước, sinh viên học một năm tại trường để nắm kiến thức cơ bản, một năm tại trung tâm đào tạo của doanh nghiệp để tiếp cận công nghệ thực tế, và một năm cuối trải nghiệm trực tiếp tại vị trí việc làm trong doanh nghiệp.
Ví dụ, chúng tôi hợp tác với– Công ty Goertek Vina – doanh nghiệp sản xuất điện tử lớn với hơn 5.000 lao động tại Bắc Ninh – để triển khai mô hình này. Từ năm 2022 đến nay, hơn 300 sinh viên đã tham gia và 95% có việc làm ngay sau tốt nghiệp.

Thứ hai, với hợp tác quốc tế, chúng tôi kết nối với Công ty Goertek tại Trung Quốc và 1 trường Cao đẳng tại Trung Quốc: sinh viên học một năm tại Việt Nam, một năm tại trường cao đẳng đối tác ở Trung Quốc, và một năm cuối thực hành tại Công ty Goertek tại Trung Quốc hoặc tại Việt Nam (Goertek Vina). Mô hình này đã đưa hơn 50 sinh viên sang Trung Quốc từ năm 2023, và 100% được doanh nghiệp đánh giá cao về kỹ năng.
Để thành công, nhà trường phải gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng chương trình đào tạo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chỉ khoảng 30% các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam hợp tác thực chất với doanh nghiệp, còn lại vẫn mang tính hình thức, dẫn đến việc doanh nghiệp phải đào tạo lại 40-50% lao động mới tuyển dụng.
"LÀM THỢ KHÔNG BẰNG LÀM THẦY" VÀ THÁCH THỨC TUYỂN SINH
Xã hội vẫn có định kiến ưu tiên con em học đại học để "làm thầy" thay vì học nghề để "làm thợ". Điều này ảnh hưởng thế nào đến tuyển sinh của các trường nghề?
Định kiến này khiến tuyển sinh khối giáo dục nghề nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Một thống kê cho thấy số lượng học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) vào học giáo dục nghề nghiệp (cao đẳng, trung cấp) chiếm khoảng 28% tổng số học tốt nghiệp THPT mỗi năm.
Ngoài ra, số lượng học sinh theo học lĩnh vực khoa học, công nghệ -kỹ thuật (STEM)ở cả đại học và cao đẳng chỉ chiếm khoảng 20-25% trong số đó, ảnh hưởng tớisố lượng nhân lực khoa học, công nghệ trình độ và tay nghề cao,khó đáp ứng triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Phụ huynh và học sinh thường nghĩ học nghề chỉ để "làm thợ", không thể "làm thầy". Nhưng thực tế, theo thống kê củaTổng Cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của cử nhân đại học năm 2023 là 4,5%, cao gấp đôi so với mức 2,1% của lao động qua đào tạo nghề.
Học nghề mang lại lợi thế về kỹ năng thực tiễn, phục vụ trực tiếp công việc. Tại Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ, sinh viên vẫn có thể liên thông lên đại học sau khi tốt nghiệp – hiện nay, khoảng 10-15% sinh viên sau tốt nghiệp chọn con đường này mỗi năm. Để thay đổi nhận thức, chúng tôi cam kết 95-100% sinh viên có việc làm ngay sau tốt nghiệp.
Chẳng hạn, từ năm 2021, sinh viên sau khi học từ 1-1,5 năm đã tham gia học tập và thực tập tại doanh nghiệp và được hỗ trợ kinh phí khoảng 5-7 triệu đồng/tháng, gần như một mức lương nhỏ, trước khi ký hợp đồng chính thức sau khi tốt nghiệp với mức lương khởi điểm trung bình 9-12 triệu đồng/tháng.
Ngoài ra,tỉnh Bắc Ninh đã triển khai Nghị quyết 05/2024/NQ-HĐND ngày 28/6/2024 hỗ trợ 100% học phí cho các ngành trọng điểm như cơ khí, điện - điện tử, và các nghề tiệm cận ngành công nghiệp bán dẫn giúp giảm gánh nặng tài chính cho gia đình.
DOANH NGHIỆP VIỆT CHƯA THỰC SỰ ĐỒNG HÀNH
Dù có sự hỗ trợ từ Nhà nước và địa phương, nguồn nhân lực vẫn thiếu hụt, đặc biệt ở các tỉnh công nghiệp như Bắc Ninh. Theo ông, đâu là nguyên nhân và khó khăn lớn nhất hiện nay?
Thiếu hụt nhân lực tập trung ở các lĩnh vực công nghệ cao như chuyển đổi số hay bán dẫn.Một báo cáo của cơ quan quản lý Nhà nước năm 2024 cho thấyViệt Nam cần khoảng 150.000 lao động trong ngành công nghệ thông tin mỗi năm, nhưng chỉ đáp ứng được 60-70%, tức là thiếu hụt gần 50.000 người. Nguyên nhân một phần do định hướng phân luồng chưa hiệu quả: 70-75% học sinh cấp ba chọn ngành kinh tế - xã hội, chỉ 20-25% chọn khoa học - kỹ thuật, dẫn đến thiếu nguồn cungnhân lực từ gốc.
Nhưng khó khăn lớn nhất là sự chưa sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam trong việc đồng hành cùng nhà trường. Hiện nay, các doanh nghiệp FDI như: Goertek Vina, Foxconn hay Luxshare rất tích cực – ví dụ, Foxconn đã đầu tư hơn 1 triệu USD vào đào tạo lao động tại Bắc Ninh từ năm 2020.
Ngược lại, 97% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, không đủ nguồn lực để hợp tác chặt chẽ. Khi chúng tôi tiếp cậnmột số doanh nghiệpViệt Nam tại Hà Nội hay Bắc Ninh, họ thường chỉ dừng ở mức ký kết biên bản ghi nhớ mà không đủ năng lực và khả năng để triển khai hiệu quả.
Ngoài ra, Việt Nam còn thiếu cơ chế buộc doanh nghiệp tham gia từ khâu tuyển sinh đến đào tạo. Ở Thái Lan, luật quy định doanh nghiệp phải ưu tiên tuyển lao động có chứng chỉ kỹ năng nghề, và 80% doanh nghiệp đồng hành với trường nghề.
Tại Việt Nam, dù đã ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề cho 189 ngành, nhưng con số này chỉ chiếm 10% so với khoảng hơn 1.800 ngành nghề thực tế, và doanh nghiệp chưa công nhận chung một chuẩn.
Một thách thức khác là đầu tư cơ sở vật chất. Theo tính toán của chúng tôi, để đào tạo một sinh viên ngành cơ khí hoặc điện tử, chi phí thiết bị và vật tư tiêu hao trung bình khoảng 50-70 triệu đồng/năm, trong khi học phí chỉ thu được 15-20 triệu đồng. Để bù đắp, chúng tôi nhận các dự án cải tiến công nghệ từ doanh nghiệp, vừa tạo nguồn thu vừa nâng cao tay nghề cho sinh viên và giảng viên.
So với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, hay xa hơn là Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đang ở đâu trong việc đào tạo nhân lực chất lượng cao?
Về năng lực đào tạo, chúng ta không thua kém. Việt Nam đã học hỏi mô hình từ Đức, Úc, Hàn Quốc – ví dụ, chương trình chuyển giao từ Đức hiện áp dụng tại 45 trường nghề, đào tạo hơn 10.000 lao động từ năm 2015.
Nhưng điểm khác biệt là Hàn Quốc và Nhật Bản có chuẩn kỹ năng chung được doanh nghiệp đồng thuận. Chẳng hạn, Hàn Quốc yêu cầu 90% lao động ngành công nghệ thông tin phải đạt chứng chỉ KPC, và doanh nghiệp hỗ trợ 50% chi phí đào tạo. Việt Nam chưa có cơ chế tương tự.
Mô hình của FPT là một điểm sáng nội địa: từ năm 2010, họ đã đào tạo hơn 50.000 nhân lực công nghệ thông tin, với 80% đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp. Nhưng để nhân rộng, cần các doanh nghiệp chủ lực trong từng lĩnh vực – như cơ khí, điện tử – hợp tác với hiệp hội ngành nghề để đặt hàng đào tạo.
Với thực trạng đào tạo hiện nay, ông có lạc quan rằng Việt Nam sẽ đáp ứng được nguồn nhân lực cho kỷ nguyên phát triển mới không? Mất bao lâu để đạt mục tiêu này?
Tôi lạc quan vì giáo dục nghề nghiệp đã có nhiều khởi sắc. Năm 2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 26,8%, tăng từ 20% năm 2015.
Nhưng để đáp ứng nhu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, chúng ta cần nhân rộng mô hình đào tạo hiệu quả và hoàn thiện thể chế. Nếu cơ chế gắn kết doanh nghiệp được xây dựng rõ ràng trong 2-3 năm tới, tôi tin rằng trong 5-10 năm, Việt Nam có thể đạt mức 50% lao động chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với khu vực.